LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI - Liên Xô xây dựng CNXH (2)
A A+
LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI - Liên Xô xây dựng CNXH (2)

I. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ TỪ 1941 - ĐẦU NHỮNG NĂM 1970s

1. Công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1946 - 1950)

Chiến tranh đã gây ra hậu quả nặng nề đối với nền kinh tế, xã hội Liên Xô: khoảng 27 triệu người chết, hàng chục nghìn người bị thương hoặc mất tích, 1.710 thành phố và hơn 70 nghìn làng mạc bị thiêu huỷ, 32 nghìn xí nghiệp, nhà máy bị tàn phá cùng nhiều công trình văn hoá, hệ thống giao thông, điện nước. Thiệt hại về vật chất ước tính 2000 tỉ rúp.

Trong khi đó, ngay sau chiến tranh, Mĩ và các nước đế quốc khác đã ra sức chạy đua vũ trang, tiến hành cuộc “chiến tranh lạnh” chống Liên Xô và các nước XHCN khác.

Trong bối cảnh đó, nhân dân Liên Xô với niềm phấn khởi tự hào của một dân tộc chiến thắng trong chiến tranh đã khẩn trương bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1946-1950) do Xô viết tối cao thông qua ngày 18-3-1946 được hoàn thành vượt thời hạn.

Về công nghiệp, Liên Xô phải đồng thời giải quyết ba vấn đề quan trọng: thứ nhất, phi quân sự hoá nền kinh tế bằng cách chuyển sang xây dựng các công trình dân dụng; thứ hai, khôi phục các xí nghiệm bị tàn phá; thứ ba, tiến hành xây dựng các xí nghiệp mới. Nhiệm vụ thứ nhất căn bản được thực hiện trong năm 1946 - 1947. Về nhiệm thứ hai, quan trọng nhất là phục hồi hoạt động của ngành năng lượng. Các nhà máy điện nước khôi phục và đi vào hoạt động, đặc biệt là nhà máy thuỷ điện Đơnhiép. Năm 1947, nhà máy đã cho phát dòng điện đầu tiên, đến năm 1950 đã phục hồi toàn bộ công suất thiết kế.

Giữa các ngành công nghiệp mũi nhọn có cả công nghiệp than và luyện kim, trước hết là mỏ than Đônbát và các nhà máy luyện kim ở phía nam như Dapôrôde và Adốp.

Công nghiệp quốc phòng cũng được Đảng và Chính phủ chú ý, trước hết là vũ khí chiến lược. Năm 1948, lò phản ứng hạt nhân sản xuất Plutôn được xây dựng ở Chialibin. Mùa thu năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật Xô viết, đồng thời phá thế độc quyền bom nguyên tử của Mĩ. Sau đó, Liên Xô đã tuyên bố sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hoà bình. Năm 1954, Nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới đã được xây dựng ở ngoại ô Matxcơva với công suất 5000 kw.

Nhìn chung, công nghiệp đã phục hồi vào năm 1947, đạt mức trước chiến tranh. Tới cuối kế hoạch 5 năm lần thứ 4, sản lượng tăng 73% (kế hoạch dự kiến 48%). Hơn 6200 xí nghiệp được phục hồi hoặc xây dựng mới được bắt đầu hoạt động. Tuy nhiên, công nghiệp nhẹ vẫn lạc hậu và không hoàn thành kế hoạch.

Về nông nghiệp, tuy gặp không ít khó khăn, phức tạp, nhưng đến năm 1950, sản xuất nông nghiệp cũng đạt mức trước chiến tranh. Trong những năm sau chiến tranh, Chính phủ Xô viết đã có một số chủ trương không đúng như không khuyến khích kinh tế phụ gia đình, thiếu quan tâm tới lợi ích vật chất của nông dân, thực hiện đường lối tập trung hoá sản xuất nông nghiệp, theo đó quy mô các nông trang tăng lên, xoá bỏ các tiểu nông trang tập thể (từ 255.314 năm 1950 xuống còn 93.000). Việc tập thể hoá ồ ạt trong các nước công hoà mới sáp nhập vào Liên Xô trước chiến tranh cũng mang lại những hậu quả xấu cho nông nghiệp.

Trong khoa học nông nghiệp, quan điểm của nhóm bác học hành chính do viện sĩ T.Lưxencô đứng đầu đã thắng thế. Công nghiệp di truyền, khoa học then chốt của tự nhiên học hiện đại bị phê phán.

Những sự kiện quan trọng của năm 1947 là cải cách tiền tệ và xoá bỏ chế độ tem phiếu.

Về đời sống chính trị xã hội thời kì này cũng có những diễn biến quan trọng. Năm 1946, Xô viết tối cao Liên Xô đã cải tổ Hội đồng các uỷ viên nhân dân thành Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, N.M. Svecnhic thay Calinin giữ chức vụ Chủ tịch đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô. Các sinh hoạt chính trị của các tổ chức Đảng và quần chúng như Công đoàn, Đoàn thanh niên dần dần được khôi phục.

2. Công cuộc xây dựng CNXH từ 1951 đến nửa đầu những năm 70

Sau khi hoàn thành khôi phục kinh tế, Liên Xô bắt tay thực hiện các kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.

Về công nghiệp: Trong thời kì này, phương hướng phát triển cơ bản là tiếp tục đẩy mạnh sản xuất công nghiệp nặng - nền tảng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là những ngành có ý nghĩa quyết định sự tiến bộ kĩ thuật như chế tạo máy, điện lực, hoá dầu, hoá chất. Trong nông nghiệp, thực hiện thâm canh trên cơ sở cơ giới hoá, điện khí hoá và hoá học hoá; đẩy mạnh tiến bộ khoa học kĩ thuật. Về văn hoá, tăng cường giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa.

Trong hơn hai thập kỉ kể từ năm 1950, mặc dù còn nhiều sai lầm, thiết sót, Liên Xô đã thu được những thành tựu to lớn, trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai trên thế giới (sau Mĩ), chiến hơn 20% sản lượng công nghiệp thế giới. Từ năm 1951 đến 1975, tốc độ tăng trưởng công nghiệp hằng năm đạt bình quân 9,6%. Năm 1972, so với năm 1922 - 50 năm Liên bang Xô viết, sản lượng công nghiệp tăng 321 lần, thu nhập quốc dân tăng 122 lần và chỉ 4 ngày là đủ sản lượng của cả năm 1913 là năm cao nhất của đế quốc Nga Sa hoàng.

Về nông nghiệp: Từ nửa sau năm 1953 đã diễn ra nhiều cải cách quan trọng để lại nhiều mặt tích cực trong sự phát triển nông nghiệp. Đảng và Chính phủ Xô viết đã có nhiều chủ trương để phát triển nông nghiệp như khai hoang tăng diện tích canh tác, cải tạo và xây dựng hệ thống thuỷ lợi, cải tổ các trạm máy kéo, đưa cán bộ, chuyên gia nông nghiệp về địa phương, cải tiến chế độ giá cả, quan tâm tới kinh tế phụ gia đình, tới lợi ích của người lao động v.v…

Tuy gặp không ít khó khăn và phức tạp, sản xuất nông nghiệp đã có chuyển biến và thu được những thành tích nổi bật. Sản lượng nông phẩm trong những năm 60 tăng trung bình hàng năm khoảng 16%. Năm 1970, sản xuất nông nghiệp đạt sản lượng chưa từng có trong lịch sử đất nước với 186 triệu tấn ngũ cốc.

Về khoa học kĩ thuật: Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc trong các lĩnh vực khoa học cơ bản toán, lí, hoá, sinh, trong ngành điện tử, điều khiển học, khoa học vũ trụ. Tháng 10 năm 1957, Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên lên quỹ đạo trái đất. Tháng 4-1961, con người đầu tiên của thế giới đã bay lên vũ trụ, thực hiện chuyến bay vòng quanh trái đất trên con tàu Phương Đông - công dân Liên Xô Iu.Gagarin, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ vì mục đích hoà bình. Tiếp đó là G.Titốp, A.Nicôlaiep, Valentina Terêxcôva v.v… Liên Xô cũng là nước dẫn đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ.

Về quân sự, đầu những năm 70, bằng việc kí kết với Mĩ các hiệp ước về hạn chế phòng chống tên lửa và hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (gọi tắt là Hiệp ước ABM và Hiệp ước SALT - 1 và SALT - 2). Liên Xô đã đạt được thế cân bằng chiến lược về sức mạnh quân sự nói chung và sức mạnh hạt nhân nói riêng , làm đảo lộn toàn bộ chiến lược toàn cầu của Mĩ và đồng minh của chúng.

Về chính trị, xã hội: Ngày 5-3-1953 Xtalin qua đời, ban lãnh đạo mới do Khơrútsốp đứng đầu. Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX và XXII là những sự kiện chính trị quan trọng nhất thời kì này. Đại hội XX của Đảng tiến hành tháng 2 - 1956, tổng kết kế hoạch 5 năm lần thứ 5 (1951 - 1955), thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1956-1960). Trong phiên họp cuối cùng, Khơrútsốp đã đọc báo cáo (không nằm trong chương trình nghị sự) về tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó, đã đưa đến sự chia rẽ to lớn trong phong trào cộng sản quốc tế cũng như ở Liên Xô.

Trong những năm 1957, 1958, đã diễn ra những hoạt động nhằm gạt bỏ Khơrútsốp nhưng không thành, kết quả là những nhân vật “chóp bu” thuộc phái “quyền lực” bị loại bỏ như Bộ trưởng Quốc phòng Giucốp, Chủ tịch Uỷ ban an ninh (KGB) Xêrốp. Năm 1958, Khơrútsốp đồng thời giữ chức vụ đứng đầu Đảng và Nhà nước.

Đại hội XXII của Đảng họp tháng 10-1961 thông qua cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đại hội cho rằng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã thắng lợi “hoàn toàn và chắc chăn”, đất nước đang bước vào giai đoạn “xây dựng chủ nghĩa cộng sản”. Khung thời gian để thực hiện cương lĩnh dự kiến khoảng 15 đến 20 năm. Thực ra cho đến lúc tan rã, Liên Xô vẫn chưa xây dựng được thắng lợi chủ nghĩa xã hội, còn nhận định chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi hoàn toàn và chắc chắn là mang tính chủ quan không thực tế, không khoa học. Đây chính là thất bại lớn nhất về đường lối của Khơrútsốp.

Tháng 10 năm 1964, Khơrútsốp bị phê phán là “ý chí luận”, “chủ quan chủ nghĩa” nên bị lật đổ bằng cuộc đảo chính hoà bình. Brêgiơnép giữ chức vụ Bí thư thứ nhất, Côxưgin - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Micôian (từ 1965 là Pốtgoócnưi) - Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao. Từ đây chức vụ đứng đầu Đảng và Chính phủ không nằm trong tay một người.

Trên lĩnh vực xã hội, trải qua hơn 50 năm, Liên bang Xô viết đã có sự thay đổi to lớn. Năm 1971, công nhân chiếm trên 55% số người lao động cả nước, bình quân trên 1000 người thì có hơn 550 người có trình độ đại học và trung học. Liên Xô là nước đứng đầu thế giới về trình độ học vấn cao, trên 30 triệu người lao động trí óc. Quan hệ dân tộc cũng được tăng cường đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, tiến tới một cộng đồng dân cư mới - nhân dân Xô viết.

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu và tiến bộ lớn lao, các nhà lãnh đạo Liên Xô vẫn tiêp tục mắc những sai lầm thiếu sót trong đường lối xây dựng CNXH ở Liên Xô như chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn (như đề ra kế hoạch xây dựng CNCS trong thời gian ngắn), duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kế hoạch hoá cao độ vốn đã có nhiều khuyết tật, thiếu tôn trọng quy luật phát triển kinh tế khách quan, thiếu sự phát triển cân đối giữa công nghiệp nặng với công nghiệp nhẹ, công nghiệp tiêu dùng, giữa công nghiệp với nông nghiệp; thiếu dân chủ và công bằng xã hội, vi phạm pháp chế XHCN.

Tuy thế, lúc này do sự tin tưởng, ủng hộ của đông đảo nhân dân, công cuộc xây dựng CNXH vẫn tăng tiến. Những sai lầm đó chưa dẫn tới trì trệ và khủng hoảng. Khoảng cách giữa Liên Xô và Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản không nhiều. Mức sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Xã hội Xô viết vẫn ổn định và phát triển.

Về đối ngoại, Đảng và Chính phủ Liên Xô kiên trì thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, an ninh, mở rộng sự hợp tác với các nước XHCN, đặc biệt là với các nước Đông Âu (gọi là cộng đồng XHCN), ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, có quan hệ bình đẳng, hữu nghị và giúp đỡ các dân tộc mới được giải phóng, duy trì và phát triển quan hệ với các nước TBCN trên cơ sở chung sống hoà bình, hợp tác thiết thực cùng có lợi; đoàn kết với các Đảng Cộng sản và dân chủ cách mạng, với phong trào công nhân quốc tế.

Với tư cách là một trong những nước sáng lập ra Liên Hợp Quốc (1945), Liên Xô đã có nhiều sáng kiến quan trọng nhằm giữ vững và phát huy vai trò của tổ chức này trong quan hệ quốc tế.

Liên Xô lúc này đã trở thành thành trì của hoà bình thế giới và chỗ dựa vững chắc nhất, tin cậy nhất của phong trào cách mạng thế giới. Địa vị và ảnh hưởng quốc tế của Liên Xô lớn mạnh hơn bao giờ hết.

II. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ TỪ  ĐẦU NHỮNG NĂM 1970s - 1991

 

Cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới năm 1973 đã tác động mạnh mẽ tới nhiều quốc gia dân tộc nhưng các nhà lãnh đạo Liên Xô cho rằng Liên Xô XHCN không chịu ảnh hưởng mà vẫn tiếp tục xây dựng XHCN theo mô hình cũ. Kết quả là nền kinh tế Liên Xô trong những năm 70 và đến đầu những năm 80 đã bị suy sụp và khủng hoảng trầm trọng. Trong 15 năm (170-1985), thu nhập quốc dân giảm 2,5 lần, sản xuất công nghiệp giảm 2,5 lần, sản xuất nông nghiệp 3,5 lần, thu nhập theo đầu người giảm 3 lần…, khoa học kỹ thuật trở nên lạc hậu.

Chính trị mất ổn định trong những năm cuối đời của Brêgiơnhép, các quá trình quan liêu tăng lên, xã hội bất mãn, nhân dân chống đối. Trong những năm 70, những người có tư tưởng đối lập đã tập hợp trong phong trào gọi là “Axiđen” chống lại chủ nghĩa xã hội và chống lại nhà nước Liên Xô, trong số đó có Viện sĩ A.Xakharốp, nhà văn A.Xôngennhixin, B.Macxinốp v.v…

Một loạt cán bộ cao cấp lần lượt qua đời: Xulốp 1983, Anđrôpôp (2-1984), Chécnencô (3-1985). Đất nước Xô Viết và nhân dân quá mệt mỏi và trông chờ một người lãnh đạo trẻ trung, tài năng.

Trong bối cảnh đó, tháng 3-1985, M.Goócbachốp được cử làm Tổng bí thư Đảng (mới ngoài 50 tuổi). Tại Hội nghị Trung ương tháng 4-1985, Goócbachốp đã đọc bài phát biểu quan trọng mở đầu cho công cuộc cải tổ ở Liên Xô, được phát triển bổ sung tại Đại hội Đảng lần thứ XXVII (1986).

Công cuộc cải tổ của Goócbachốp trải qua 6 năm và chia làm 3 thời kì. Thời kì đầu được gọi là “tăng tốc” (phát triển kinh tế xã hội), thời kì cải tổ từ 1987 tới 1989 và thời kì xây dựng kinh tế thị trường có điều tiết từ 1989 đến 1991.

Nhìn chung, công cuộc cải tổ của Goócbachốp chủ yếu được tiến hành về mặt chính trị, xã hội như: thực hiện chế độ Tổng thống tập trung quyền lực, thực hiện đa nguyên về chính trị, xóa bỏ vai trò một đảng lãnh đạo, thực chất hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện công khai dân chủ không giới hạn. Về kinh tế, Chính phủ cũng đã đưa ra nhiều phương án nhằm chuyến biến nền kinh tế sang cơ chế thị trường nhưng trong thực tế chưa làm được bao nhiêu, trong khi đó các quan hệ kinh tế cũ bị phá vỡ.

Công cuộc cải tổ đã vấp phải nhiều khó khăn trở ngại: sự suy sụp kinh tế kéo theo những khó khăn về chính trị, xã hội. Nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô mâu thuẫn sâu sắc và chia thành các phe phái (ngay trong Đại hội Đảng lần thứ XXVII và Hội nghị toàn quốc của Đảng sau đó). Lợi dụng điều này, các thế lực đế quốc và phản động bắt đầu trỗi dậy chống Liên Xô XHCN.

Ngày 19-8-1991, những người thuộc phái “bảo thủ” trong Đảng đã làm cuộc đảo chính lật đổ Goócbachốp nhưng bị thất bại, hậu quả hết sức nặng nề: Đảng Cộng sản bị đình chỉ hoạt động, Chính phủ Xô Viết bị giải thể, 11 nước cộng hòa tách khỏi Liên Xô, thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG 21-12-1991). Một làn sóng chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội dâng lên khắp mọi nơi.

Ngày 25-12-1991, Goócbachốp từ chức Tổng thống. Cùng ngày đó, lá cờ đỏ búa liềm trên nóc Điện Cremli bị hạ xuống, thay bằng lá cờ 3 sọc trắng xanh đỏ của phong trào nước Nga dân chủ. Đến đây, chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang Xô viết cũng chấm dứt tồn tại.

Documents:

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
    Top