1. Hóa Vô cơ
Sau hơn nửa thế kỉ, kể từ ngày thành lập (1955) đến nay, bộ môn Hoá vô cơ - Khoa Hoá học ngày một trưởng thành và lớn mạnh.
Nhớ lại những năm đầu (1958), Trường ĐHSP rời địa điểm từ phố Lê Thánh Tông về Cầu Giấy, ban đầu bộ môn chỉ có hai Thầy: Hoàng Ngọc Cang và Đặng Trần Phách. Thầy Nguyễn Cương là giảng viên trường Sư phạm trung cấp Trung ương và Thầy Nguyễn Đức Vận là giáo viên phổ thông chuyển về. Năm 1959, một số cán bộ trẻ ưu tú vừa tốt nghiệp là các Thầy: Nguyễn Duy Ái, Nguyễn Đình Ngộ, Từ Kỳ được giữ lại công tác ở bộ môn. Đó là cái vốn quí ban đầu, để từ đó thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước viết nên bề dày thành tích của bộ môn.
Thầy Hoàng Ngọc Cang là trưởng bộ môn từ năm 1955 đến năm 1959. Thầy Đặng Trần Phách là trưởng bộ môn từ 1959 đến khi đi công tác ở ĐHSP Vinh, năm 1961. Thầy Nguyễn Duy Ái là trưởng bộ môn từ năm 1961 đến khi đi công tác ở ĐHSP Việt Bắc, năm 1966.Thầy Nguyễn Đình Ngộ là trưởng bộ môn từ năm 1966 đến 1967(do bận công tác Bí thư liên chi Đảng Khoa).Thầy Từ Kỳ là trưởng bộ môn từ năm 1967 đến khi chuyển vào công tác tại trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh, năm 1977. Thầy Nguyễn Duy Ái là trưởng bộ môn tiếp từ năm 1977 đến khi đi chuyên gia ở Angiêri, năm 1983.
Cô Trần Thị Bình là phó bộ môn từ 9/1979 đến 1983 và quyền trởng bộ môn năm 1983-1984. Năm 1984, Thầy Đặng Trần Phách (ở ĐHSP Vinh chuyển ra) làm trưởng bộ môn đến khi đi chuyên gia ở Mađagatxca, năm 1985. Từ cuối năm 1985, Thầy Nguyễn Thế Ngôn là trưởng bộ môn đến năm 1997 (nghỉ hưu). Cô Trần Thị Đà là trưởng bộ môn từ 3/1997 đến 8/2001. Thầy Phạm Đức Roãn là phó bộ môn từ 5/1997 đến 8/2001 và từ 9/2001 đến nay là trưởng bộ môn Hoá vô cơ. Thày Lê Hải Đăng là phó bộ môn từ 2001 đến nay
Cùng với sự phát triển của Trường Đại học Sư phạm và Khoa Hoá học, Bộ môn Hoá học Vô cơ không ngừng phát triển cả về số lượng cán bộ và chất lượng chuyên môn. Cho đến nay, sau 60 năm xây dựng và phát triển, Bộ môn Hoá học Vô cơ đã trở thành một trong số các đơn vị mạnh của Khoa Hoá học với 13 cán bộ trong đó có 1 Phó giáo sư, 6 tiến sĩ, 7 thạc sĩ, 1 cử nhân, chưa kể 1 Phó giáo sư đã nghỉ hưu đang hợp tác giúp bộ môn. Về cơ sở vật chất, hiện tại Bộ môn có 2 phòng thí nghiệm chung của sinh viên, 1 phòng máy, 3 phòng thí nghiệm chuyên ngành (1 Phòng thí nghiệm Phức chất, 1 Phòng thí nghiệm Nguyên tố hiếm và 1 Phòng thí nghiệm Vật liệu Vô cơ). Tuy cơ sở vật chất phục vụ đào tạo còn chưa đầy đủ, đời sống còn nhiều khó khăn nhưng tất cả các cán bộ giáo viên của bộ môn Hóa học Vô cơ đều nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
2. Hóa Hữu cơ
Bộ môn Hóa hữu cơ được thành lập vào cuối năm 1954. Cùng với sự phát triển của Trường Đại học Sư phạm và Khoa Hoá học, Bộ môn Hoá học hữu cơ không ngừng phát triển cả về số lượng cán bộ và chất lượng chuyên môn. Cho đến nay, sau gần 60 năm xây dựng và phát triển, Bộ môn Hoá hữu cơ đã trở thành một trong số các đơn vị mạnh của Khoa Hoá học với 13 cán bộ trong đó có 1 Giáo sư, 2 Phó giáo sư (1 PGS thỉnh giảng), 5 tiến sĩ, 4 thạc sĩ, 1 cử nhân.
Bộ môn Hóa hữu cơ có nhiệm vụ đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học. Về công tác đào tạo : Bộ môn tham gia đào tạo cử nhân khoa học sư phạm, cử nhân khoa học các hệ chính qui, vừa học vừa làm và liên thông, đào tạo sau đại học trình độ thạc sĩ, tiến sĩ khoa học chuyên ngành hóa hữu cơ, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hệ thống giáo dục quốc dân và xã hội. Ngoài ra Bộ môn còn đảm nhận nhiệm vụ giảng dạy hóa học hữu cơ cho khoa Sinh, khoa Sư phạm Kĩ thuật… biên soạn giáo trình đại học, sau đại học, tham gia biên soạn sách giáo khoa phổ thông, tham gia tập huấn các đội tuyển học sinh giỏi THPT cấp quốc gia và quốc tế, tập huấn giáo viên THPT (chuyên và không chuyên)…Tính đến nay (2012), Bộ môn đã tham gia đào tạo trên 7500 cử nhân, 180 thạc sĩ, gần 20 Tiến sĩ chuyên ngành hóa hữu cơ.
Bộ môn đã 27 lần đạt danh hiệu thi đua, gồm có: 11 lần đạt danh hiệu tổ lao động XHCN (từ 1967 - 1989), 16 lần đạt danh hiệu Tổ lao động xuất sắc, nhiều bằng khen (của Bộ và của Trường ĐHSP HN), nhiều giấy khen của Trường ĐHSP Hà Nội. Trong giai đoạn 2004-2010: Bộ môn được công nhận là đơn vị Lao động tiên tiến năm học 2006 - 2007, tại QĐ số 2696/ĐHSPHN-CTCT, 28/9/2007 ; đơn vị Lao động tiên tiến năm học 2007 - 2008, tại QĐ Số 2537/ĐHSPHN-CTCT, 22/09/2008 ; đơn vị Lao động tiên tiến năm học 2008 - 2009, tại QĐ Số 3373/QĐ-ĐHSPHN-CTCT, 02/11/2009. Cá nhân : Bộ môn có 1 NGND (GS.TS.Trần Quốc Sơn), 3 NGƯT (PGS.TS.Nguyễn Văn Tòng, PGS.TS.Thái Doãn Tĩnh, GS.TS.Nguyễn Hữu Đĩnh,), nhiều cán bộ của Bộ môn được tặng thưởng Huân, huy chương các loại (trên 20, trong đó có 1 Huân chương lao động hạng nhì, 2 huân chương lao động hạng hai và các huân huy chương chống Mỹ cứu nước), 3 bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 14 bằng khen của Bộ... nhiều Huy chương, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp Khoa học Công nghệ.
3. Hóa lí
Bộ môn Hoá học lí thuyết & Hoá lí khoa Hoá học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tiền thân là tổ Hoá lí của trường Đại học Khoa học – Sư phạm Hà Nội, được thành lập năm 1958. Thầy tổ trưởng đầu tiên là Giảng viên Đại học (học hàm chỉ sau Giáo sư lúc bấy giờ) Nguyễn Đình Huề. Cùng với trường Đại học Sư phạm, bộ môn Hoá lí chuyển về địa điểm mới ở Cầu Giấy. Thầy Nguyễn Đình Huề cùng với một số rất ít cán bộ lúc đó là Thầy Lê Hoàng Oánh, ông Nguyễn Trọng Khải đem theo một số ít dụng cụ thí nghiệm được chia từ trường Đại học Khoa học – Sư phạm về cơ sở mới, bắt tay xây dựng lại bộ môn từ đầu. Vượt qua những khó khăn rất lớn về cả nhân lực lẫn vật lực, bộ môn tiến lên từng bước.
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học, trong suốt quá trình xây dựng, toàn thể bộ môn đã có nhiều cố gắng tới cuối năm 2005 đã được nghiệm thu 8 đề tài khoa học cơ bản cấp Nhà nước, 2 đề tài cấp Bộ, 2 đề tài cấp Trường. Đã có hàng trăm bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học có uy tín ở trong và ngoài nước. Hiện nay cùng với việc nghiên cứu toàn diện, bộ môn tập trung mũi nhọn vào lĩnh vực Hoá học lí thuyết (chủ yếu là Hoá học lượng tử), Động Hoá học xúc tác. Theo phương châm “cập nhật, đồng bộ, giữ tốt, sử dụng hiệu quả” phòng thí nghiệm Hoá lí được trang bị, bổ sung một số thiết bị, dụng cụ theo từng bài thí nghiệm hoàn chỉnh góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu của sinh viên. Phòng máy vi tính, phòng thí nghiệm Hoá học lượng tử, phòng thí nghiệm ‘Hóa lý bề mặt và xúc tác ‘ cũng được quan tâm đầu tư nên bước đầu hoạt động có hiệu quả.
Noi theo tấm gương sáng về tự học của Thầy Nguyễn Đình Huề, các thế hệ cán bộ của bộ môn luôn tự học, tự bồi dưỡng. Cuối 1979, cán bộ đầu tiên của bộ môn và cũng là của khoa bảo vệ thành công luận án PTS (nay là TS) là Thầy Nguyễn Huyến. Cho đến nay, bộ môn có 17 TS (kể cả các đồng chí đã chuyển sang cơ quan khác), 7 GS và PGS.
Một nét truyền thống khác của bộ môn là không ngừng cải tiến chuyên môn, giảng dạy, đào tạo ngày càng có hiệu quả cao hơn. Vào giữa những năm 1960, Thầy Nguyễn Văn Mạo đã có đề xuất đưa nội dung Hoá lí giảng dạy sớm hơn để tạo nền tảng cơ sở kiến thức cho các bộ môn khác. Việc này đã có hiệu quả rất tốt. Từ đó đến nay, bộ môn đã có nhiều cải tiến làm cho công tác đào tạo về Hoá lí có nhiều điểm mạnh cả về lí thuyết lẫn thực nghiệm. Đội ngũ cán bộ của bộ môn vào những năm1959, 1960 được bổ sung Thầy Nguyễn Thế Hữu và Thầy Nguyễn Văn Mạo (về sau các Thầy được đi thực tập và đào tạo ở nước ngoài trở về đóng góp rất có hiệu quả). Sau đó, số cán bộ của bộ môn được liên tục bổ sung góp phần tạo thêm sức mạnh để bộ môn hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ. Tới 2004, các Thầy, Cô lớn tuổi về hưu, hầu hết cán bộ đang công tác đều trẻ tuổi đời, ít tuổi nghề. Bộ môn đã có biện pháp tạo điều kiện cho các đồng chí tham gia công tác chuyên môn tốt đồng thời bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học tốt. Hiện nay 100% cán bộ trẻ của bộ môn đều đã và được đi học, trong đó 3/12 đồng chí làm NCS; 7 TS được đào tạo ở nước ngoài. Sau người trưởng bộ môn đầu tiên là cố GS. Nguyễn Đình Huề, gần nửa thế kỉ tồn tại và phát triển, bộ môn đã có tiếp 5 đồng chí đảm nhận nhiệm vụ trưởng bộ môn (Thầy Nguyễn Văn Duệ, Trần Hiệp Hải, Trần Thành Huế, Lê Minh Cầm). Một số đồng chí cán bộ của bộ môn tham gia công tác quản lí của khoa, trường. Cố PGS.TS. Trần Kim Thanh đảm nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm khoa Hoá học 1987 – 1991. Thầy Nguyễn Văn Mạo làm nhiệm vụ Phó hiệu trưởng trường ĐHSP Hà Nội. PGS.TS. Trần Thành Huế làm Phó chủ nhiệm khoa 1992 – 1995; Chủ nhiệm khoa 1995 – 2003. Cố PGS.TS. Trần Kim Thanh và TS. Nguyễn Thị Thu đã đảm nhận nhiệm vụ Bí thư Đảng uỷ Khoa.
Khi nước nhà thống nhất, một số đồng chí cán bộ của bộ môn sẵn sàng lên đường chi viện cho miền Nam (Vũ Mậu Nhiên, La Đồng Minh, Lê Văn Diễn, Nguyễn Thế Hữu, Trần Sơn). Một số đồng chí làm chuyên gia giáo dục ở châu Phi, ở Campuchia (Thầy Trần Hiệp Hải, Thầy Nguyễn Huyến, Thầy Nguyễn Đức Chuy). Thầy Nguyễn Văn Mạo làm trưởng đoàn chuyên gia giáo dục ở Campuchia. Thầy Trần Thành Huế 7 lần làm trưởng đoàn Việt Nam dự thi Olympic Hoá học Quốc tế (1997- 2002 và 2007).
Bộ môn có quan hệ công tác tốt với các cơ sở đào tạo nghiên cứu trong nước, ngoài nước. GS.TSKH. Nguyễn Minh Thọ, Việt kiều ở Vương quốc Bỉ đã liên tục hỗ trợ, cộng tác với bộ môn trong giảng dạy cao học, đào tạo Tiến sĩ có hiệu quả rất cao.
4. Hóa Phân tích
Năm thành lập: 1956 (chung với bộ môn Hóa học phân tích ĐHTH Hà Nội, đến năm 1958 tách ra thành bộ môn Hóa học phân tích ĐHSP Hà Nội
Nhân sự qua các thời kì: Từ ngày thành lập chỉ có 3 CBGD có bằng cử nhân và 2 TLTN. qua quá trình xây dựng và phát triển bộ môn đã không ngừng lớn mạnh lúc cao nhất gồm 7 TS, 2 Thạc sĩ, 3 cử nhân và 2 trợ lý thí nghiệm có trình độ cử nhân. Trong đó có 2 GS, 2 PGS, 5 GVC. Hiện nay bộ môn có 6 TS, 3 ThS, 1 NCS và 2 cử nhân. Trong đó có 4 PGS đảm nhận đào tạo SĐH và ĐH các hệ.
5. Phương pháp giảng dạy
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được thành lập theo quyết đinh số 276/NĐ ngày 11/10/1951 của Bộ Quốc gia Giáo dục. Lúc đó Trường có tên gọi là “Trường Sư phạm Cao cấp”, tạm trú tại Nam Ninh, Trung Quốc,
Từ tháng 8/1958 trên cơ sở hai trường: Trường Đại học Sư phạm Khoa học và Trường Đại học Sư phạm Văn khoa, tách ra thành hai trường: Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chuyển về địa điểm mới ở Cầu Giấy (địa điểm hiện nay). Theo sự phân công của tổ chức, thày Nguyễn Ngọc Quang, Cô Đỗ Thị Trang, Thầy Nguyễn Cương, Thầy Dương Xuân Trinh, Thầy Trần Trọng Dương, Thầy Phạm Văn Phái, Thầy Nguyễn Hồng,Thầy Nguyễn Xuân Trường, Cô Nguyễn Thị Sửu, Cô Nguyễn Mai Dung, Cô Lê KimThanh, Cô Đặng Thị Oanh, Thầy Hoàng Văn Côi, Thầy Nguyễn Đức Dũng,Thầy Trần Trung Ninh ,.. đã có nhiều đóng góp cho việc xây dựng bộ môn.
Từ đó đến nay Bộ môn Phương pháp giảng dạy hóa học luôn luôn phát triển, bổ sung nhiều cán bộ mới và trẻ như : Thầy Phạm Ngọc Bằng, cô Hoàng Thị Bắc, cô Phạm Thị Bình , cô Đỗ Thị Trâm Anh, cô Nguyễn Quỳnh Mai , cô Nguyễn Thị Mơ, Cô Nguyễn Thị Thành ( Nay đã chuyển đi công tác ở cơ quan khác)
Cùng với sự phát triển của Trường Đại học Sư phạm và Khoa Hoá học, Bộ môn Phương pháp giảng dạy hóa học không ngừng phát triển cả về số lượng cán bộ và chất lượng chuyên môn. Cho đến nay, sau 60 năm xây dựng và phát triển, Bộ môn Phương pháp giảng dạy hóa học đã trở thành một trong số các đơn vị mạnh của Khoa Hoá học với 9 cán bộ trong đó có 2 Phó giáo sư, 3 tiến sĩ, 5 thạc sĩ, chưa kể 1 Giáo sư tiến sĩ khoa học, 2 Phó giáo sư đã nghỉ hưu vẫn đang tiếp tục giúp bộ môn đào cao học và Tiến sĩ . Về cơ sở vật chất, hiện tại Bộ môn có 1 phòng thí nghiệm chung của sinh viên, 1 phòng nghe nhìn và 01 phòng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Tuy còn nhiều khó khăn nhưng tất cả các cán bộ, giảng viên của Bộ môn đều nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
6. Hóa Công nghệ - Môi trường
7. Văn phòng
Cùng với sự phát triển của khoa Hóa học, tổ văn phòng đã được thành lập. Trước đây, tổ văn phòng gồm vài ba người. Cô Nguyễn Thị Bé, cán bộ miền Nam tập kết làm tổ chức cán bộ, thầy Nguyễn Hân đánh máy và 1 cô là giáo vụ. Thời kỳ giặc Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc cán bộ, sinh viên khoa Hóa học phải sơ tán về các vùng nông thôn. Tổ văn phòng lúc này phải quán xuyến nhiều công việc như lo các việc về hành chính và lo về cơm áo gạo tiền, duy trì tất cả các họat động một cách độc lập. Tổ văn phòng có cô Hoàng Thanh Hiền, thầy Toàn, cô ChamPa (phu nhân của cố giáo sư Hoàng Ngọc Cang), cô Trang (phu nhân của cố giáo sư Nguyễn Đình Huề), cô Đỗ Thị San, thầy Hậu, thầy Châu, cô Hoà, cô Nhung, cô Uyên,… người phụ trách việc học tập của sinh viên, người lo chăm sóc về sức khoẻ, người lo việc hành chính, người phụ trách về tài chính, người phụ trách thư viện,…Khi cô Nguyễn Thị Bé về miền Nam thầy Hoá, thầy Ngọc làm tổ chức cán bộ phụ trách khối sinh viên. Khi thầy Hoá, thầy Ngọc chuyển về quê, thầy Nguyễn Xá được giữ lại làm cán bộ tổ chức sau khi tốt nghiệp đại học, cô Trần Thị Sơn làm giáo vụ. Khi thầy Xá chuyển đi, thầy Ngô Quang Tuyển là bộ đội về tiếp nối làm cán bộ tổ chức sau khi học xong đại học. Một thời gian sau, thầy Tuyển chuyển lên phòng đào tạo của trường công tác.Cựu cán bộ văn phòng có thời gian công tác lâu năm nhất ở khoa là cô Trần Thị Sơn: 40 năm. Đến năm 1976 cô Nguyễn Thị Côi về làm giáo vụ khoa còn cô Sơn làm cán bộ tổ chức khoa. Năm 1996 cô Sơn nghỉ hưu, thay vào đó là cô Phạm Thị Diễm Phúc.Năm 1998 văn phòng có thêm biên chế trợ lý hành chính là cô Nguyễn Thị Minh Chiến và giáo vụ khoa là cô Phạm Hồng Bắc thay cho cô Côi chuyển sang bộ môn Hoá học Công nghệ và Môi trường. Từ năm 2002 đến 2009 cán bộ tổ văn phòng có 3 người: Cô Phúc là cán bộ tổ chức sinh viên, cô Chiến giáo vụ và hành chính là cô Nguyễn Thuý Liên. Từ năm 2009 đến nay cán bộ tổ văn phòng luôn có 3 người: Cô Nguyễn Thị Minh Chiến là cán bộ tổ chức sinh viên, cô Nguyễn Thuý Liên giáo vụ và hành chính là cô Phạm Thị Thanh Thúy.
Mỗi người một việc, những việc có tên và những việc không có tên song tổ văn phòng như một guồng máy nhỏ nối các hoạt động của khoa với trường, nối việc giảng dạy và học tập, nối giáo viên với sinh viên. Hàng năm lớp lớp sinh viên vào khoa, ra trường trưởng thành đều có công lao đóng góp của các thầy cô giáo và một phần công sức của tổ văn phòng.