LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Trung Quốc cổ trung đại
A A+
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Trung Quốc cổ trung đại

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN MINH TRUNG QUỐC

1. Điều kiện tự nhiên – Dân cư

* Điều kiện tự nhiên

- Trung Quốc nằm ở phía Đông châu Á, diện tích 9,6 triệu km2, đứng thứ ba trên thế giới (sau Nga và Canađa).

Phía Đông: giáp Thái Bình Dương

Ba mặt còn lại giáp 14 nước láng giềng.

- Lãnh thổ Trung Quốc ngày nay được định hình vào khoảng thế kỷ XVIII - đời nhà Thanh, là kết quả của một quá trình mở rộng và bành trướng kéo dài hàng nghìn năm.

- Văn minh Trung Quốc bắt nguồn từ trung lưu sông Hoàng Hà, sau đó lan toả ra toàn bộ lưu vực sông Hoàng Hà và sông Trường Giang. Vùng hạ lưu sông Hoàng Hà lầy lội ẩm ướt, không thích hợp cho đời sống con người, đó là lý do giải thích vì sao nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn ở vùng trung lưu sông Hoàng Hà chứ không phải vùng hạ lưu.

Sông Hoàng Hà và Trường Giang đã bồi đắp nên những đồng bằng màu mỡ, tuy nhiên cũng thường gây ra lũ lụt, nên công tác thuỷ lợi rất quan trọng. Hai sông này bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra biển Đông Trung Hoa mang về phía Nam lượng phù sa rất lớn, tạo nên hai đồng bằng lớn nhất Trung Hoa: Hoa Bắc và Hoa Nam – là hai vựa lúa lớn nhất cả nước.

Sông Hoàng Hà dài 5464 km ở phía Bắc, sông Trường Giang dài 6300 km ở phía Nam. Sông Hoàng Hà thường đổi dòng, không theo một cửa cố định đổ ra biển, tạo nên một vùng quét tương đối rộng, gây nguy hiểm cho cuộc sống con người (hiện tượng “quẫy đuôi” của sông Hoàng Hà).

Sông Trường Giang đóng vai trò quan trọng trong quá trình dựng nước của người Trung Hoa, là một trong những hướng bành trướng, di tản lớn nhất của người xưa, vượt Trường Giang tiến xuống phía Nam. Bên cạnh sông, ở Trung Quốc có rất nhiều hồ rộng là nơi trữ nước vào mùa cạn để tưới tiêu, phân lũ vào mùa mưa.

- Địa hình Trung Quốc đa dạng, có nhiều dãy núi cao: Thiên Sơn (Thái Sơn), Tây Côn Lĩnh; có nhiều hồ lớn: Động Đình, Thanh Hải, có cao nguyên: Tây Tạng, sa mạc lớn: Gôbi, bờ biển dài ở phía Đông.

- Địa hình phức tạp đó dẫn đến nhiều loại khí hậu khác nhau, nhưng có thể chia thành hai khu vực lớn về mặt khí hậu:

miền Nam: nóng ẩm, mưa nhiều

miền Bắc: lạnh, khô.

- Tên Hoa Hạ:

Trên vùng thượng lưu sông Hoàng Hà có bộ tộc người Hạ sinh sống, thành lập nhà Hạ (thế kỷ XXI TCN). Ở vùng hạ lưu sông Hoàng Hà có tộc người Thương sinh sống, lập nên nhà Thương vào thế kỷ XVIII TCN.

Đến thế kỷ XVI TCN, hai bộ tộc này đồng hoá với nhau thành bộ tộc Hoa Hạ. Đất nước gọi là Trung Hoa (đất nước của những người Hoa sinh sống ở trung tâm, xung quanh là các bộ tộc lạc hậu: Man, Di, Nhung, Địch).

Đến Cách Mạng Tân Hợi (1911), sau khi lật đổ triều Mãn Thanh, Tôn Trung Sơn đặt tên nước  là “Trung Hoa cộng hoà dân quốc” (1912), từ đó xuất hiện tên Trung Quốc.

*Cư dân:

Từ rất xa xưa trên lãnh thổ Trung Quốc đã có người nguyên thủy sinh sống. Bằng chứng là ở khu vực Chu Khẩu Điếm (phía Tây Nam Bắc Kinh) (năm 1929), các nhà khảo cổ học đã khai quật được những xương hoá thạch của người vượn có niên đại cách nay chừng 400.000 năm. Đặc biệt, người vượn Nguyên Mưu (Vân Nam) phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm.

Chủng tộc: cư dân Trung Quốc thuộc chủng da vàng Môngôlôit. Đó là tiền thân của dân tộc Hán sau này. Hiện nay, Trung Quốc gồm 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm đa số (dân số Trung Quốc hiện nay khoảng 1,3 tỉ người, người Hán chiếm 94%), sau đó là Mãn, Mông, Hồi, Tạng…

2. Sơ lược tiến trình lịch sử Trung Quốc cổ trung đại

a. Thời kỳ cổ đại

- Thời kỳ chế độ công xã nguyên thuỷ: Đây là thời kỳ chưa có giai cấp nhà nước nên có chữ viết, do đó tìm hiểu lịch sử Trung Quốc thời kỳ này chủ yếu qua các di tích khảo cổ học và các câu chuyện truyền thuyết: thuyết Tam Hoàng – Ngũ Đế có nói tới ba vị “vua” hiền: Nghiêu (Đường Nghiêu), Thuấn (Ngu Thuấn), Vũ (Hạ Vũ), thực chất là thủ lĩnh của những liên minh bộ lạc. (Tam Hoàng: Toại Nhân (Thiên Hoàng), Phục Hy (Địa Hoàng), Thần Nông (Nhân Hoàng), Ngũ Đế: Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Trí. Cuối Đế Trí xuất hiện ba thánh hiền.

- Thời kỳ xã hội có giai cấp và nhà nước: (thời kỳ Tam Đại): 3 vương triều nối tiếp nhau: Hạ, Thương, Chu

+ Hạ (khoảng thế kỷ XXI TCN đến thế kỷ XVI TCN): là nhà nước cổ đại đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, người thành lập nhà Hạ là vua Vũ. Trong thời kỳ này, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng đỏ, chưa có chữ viết. Về chính trị: quyền lực của nhà vua bắt đầu được tăng cường, ngôi vua được cha truyền con nối. Bộ máy nhà nước đã được thiết lập tuy còn đơn giản, có quân đội, nhà tù. Cuối nhà Hạ có vua “Kiệt” được mệnh danh là bạo chúa trong lịch sử Trung Quốc.

+ Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI – XII TCN): Người sáng lập là Thành Thang. Trình độ sản xuất: thời kỳ này người Trung Quốc biết sử dụng đồ đồng thau. Chữ viết đã ra đời, đó là văn tự giáp cốt (ghi trên mai rùa, xương thú).

Do lũ lụt sông Hoàng Hà, nhà Thương di chuyển về đất Ân Khư (Hà Nam) nên nhà Thương còn có tên gọi là nhà Ân. Cuối nhà Thương có một ông vua tàn bạo là Trụ Vương. Chu Văn Vương đã lật đổ vua Trụ, lập nên một nhà nước mới gọi là nhà Chu.

+ Chu (thế kỷ XI – III TCN): chia hai giai đoạn:

Tây Chu (XI – VIII TCN (771 TCN): triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh ở phía Tây nên gọi là Tây Chu. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, người Trung Quốc biết sử dụng công cụ bằng sắt.

Nông nghiệp: thực hiện chế độ tỉnh điền (chia ruộng đất cho nông dân công xã cày cấy theo hình chữ “tỉnh”. Chế độ tỉnh điền đã xuất hiện từ trước nhưng đến Tây Chu nó phát triển hơn và hoàn chỉnh).

Chính trị: nhà nước thực hiện chế độ “tông pháp” (chế độ cai trị theo tông tộc, dòng máu): tất cả các nước chư hầu đều là con cháu nhà Chu

Đông Chu (VIII – III TCN): năm 770 TCN, vua Chu dời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông, gọi là Đông Chu.

Gồm 2 thời kỳ: Xuân Thu (722 – 481 TCN) và Chiến Quốc (403 – 221 TCN)

Đây là thời kỳ nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu nội chiến triền miên để giành quyền bá chủ, tiến tới thống nhất Trung Quốc. Đầu thời Xuân Thu có hàng nghìn nước nhỏ, đến cuối thời Chiến Quốc xuất hiện cục diện Ngũ bá Thất hùng. Trong số 7 nước lớn, Tần là nước mạnh hơn cả, đã tiêu diệt 6 nước đối địch, thống nhất Trung Quốc cả về lãnh thổ, chính trị, kinh tế.

b. Thời kỳ trung đại (221 TCN đến 1840)

(Năm 221 TCN là năm Tần Thuỷ Hoàng thành lập triều Tần, năm 1840 là năm xảy ra cuộc chiến tranh thuốc phiện giữa Trung Quốc và Anh, Trung Quốc từ một nước phong kiến trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa)

Trong hơn 2000 năm đó, Trung Quốc trải qua các triều đại sau đây:

- Tần (221 – 206 TCN)

4 năm Hán Sở tranh hùng

- Tây Hán (206 TCN – 8)

- Tân (9 – 23)

- Đông Hán (25 – 220)

- Thời kỳ Tam quốc: Nguỵ - Thục – Ngô (220 – 280)

- Tấn (265 – 420)

Năm 265, một thừa tướng nhà Nguỵ cướp ngôi nhà Nguỵ lập ra nhà Tấn

Thời kỳ Nam - Bắc triều (420 – 581). Năm 581, Tuỳ cướp ngôi Bắc Chu, đến năm 589, thống nhất Trung Quốc.

- Tuỳ (581 – 618)

- Đường (618 – 907)

Ngũ Đại thập quốc (907 – 960)

- Tống (960 – 1279): Bắc Tống (960 – 1127) và Nam Tống (1127 – 1279)

- Nguyên (1271 – 1368). Năm 1271, Hốt Tất Liệt lên ngôi Hoàng đế, đến năm 1279, thống nhất hoàn toàn Trung Quốc.

- Minh (1368 – 1644)

- Thanh (1644 – 1911)

Trong đó, thời kỳ Tần – Hán là thời kỳ xác lập và củng cố chế độ phong kiến, thời Tuỳ - Đường - Tống là thời kỳ phát triển chế độ phong kiến Trung Quốc, thời kỳ Nguyên – Minh – Thanh là giai đoạn suy tàn, khủng hoảng chế độ phong kiến.

II. NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH CỦA VĂN MINH TRUNG QUỐC

1. Chữ viết

- Đến đời Thương, chữ viết Trung Quốc mới ra đời: văn tự giáp cốt (được khắc trên mai rùa, xương thú - chủ yếu là xương quạt của bò). Lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1899 tại di chỉ Ân Khư. Đây là loại chữ tượng hình

Trên cơ sở chữ tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và mượn âm thanh (gắn liền với hình vẽ có một âm tiết để biểu đạt hình vẽ)

Ở di chỉ Ân Khư người ta phát hiện 10 vạn mảnh mai rùa và xương thú có khắc chữ giáp cốt (khoảng 4500 chữ, trong đó đã đọc được 1700 chữ).

- Thời Tây Chu, xuất hiện chữ kim văn (chung đỉnh văn) (chữ viết trên chuông đỉnh). Do việc phân phong ruộng đất cho quý tộc có công, mỗi lần như vậy, vua Chu thường ra lệnh đúc đỉnh đồng và ghi chép sự việc ấy lên đỉnh.

Thời Tây Chu còn một loại chữ viết nữa gọi là thạch cổ văn (chữ viết trên đá)

Ngoài ra, chữ viết thời Tây Chu còn được khắc trên thẻ tre.

Các loại chữ viết này gọi chung là chữ “đại triện”, hay “cổ văn”.

- Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, do chiến tranh, đất nước chia cắt nên chữ viết cũng không thống nhất.

- Tần: Tần Thuỷ Hoàng giao cho Lý Tư dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ của các nước khác tạo thành chữ tiểu triện.

Đây là cơ sở chữ Hán sau này.

- Sang thời Hán, xuất hiện chữ lệ (yếu tố tượng hình ít hơn chữ triện), là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ chân (tức chữ Hán ngày nay)

Ai là người sáng tạo ra chữ Hán?

Kinh Dịch phần Hệ từ viết: “Ngày xưa thắt nút dây để ghi nhớ sự việc, sau bậc thánh nhân mới đổi thành chữ khắc vạch”

Theo truyền thuyết, “Thương Hiệt - sử quan của Hoàng Đế, đầu rồng, 4 mắt sáng như đèn, miệng to như cái chậu, nhìn vết chân chim muông, thấy phân biệt được giống loài, liền theo đó mà tạo ra chữ viết. Lúc Thương Hiệt tạo ra chữ viết, thóc lúa từ trên trời tuôn xuống như mưa, đêm đêm quỷ khóc mưa kêu…”

2. Văn học

a. Thời cổ đại

Trung Quốc có hai tác phẩm nổi tiếng là Kinh Thi và Sở Từ.

- Kinh Thi: là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đó là công trình sáng tác tập thể của rất nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ khác nhau, trong đó phần lớn là của nhân dân lao động.  Kinh Thi là tập thơ gồm nhiều bài thơ được sưu tầm, do Khổng Tử chỉnh lý (gọi là Thi). Đến thời Hán, khi Nho giáo được đề cao, Thi được gọi là Kinh Thi. (Tập Thi được đặt vào hàng kinh điển của Nho gia).

Kinh Thi có tất cả 305 bài, chia làm 3 phần: Phong, Nhã, Tụng.

+ Phong: (Quốc Phong), là dân ca của các nước gồm 160 bài.

+ Nhã gồm Tiểu Nhã và Đại Nhã, gồm 105 bài. Tiểu Nhã phản ánh đời sống sinh hoạt của tiểu quý tộc, Đại Nhã phản ánh đời sống sinh hoạt của đại quý tộc.

+ Tụng (40 bài), gồm Chu Tụng, Lỗ Tụng, Thương Tụng, là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ và bói toán sáng tác, nội dung ca tụng công đức của các triều vua.

Trong 3 phần đó, Quốc Phong có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao nhất. Nó thể hiện tính hiện thực, phản ánh cuộc sống giàu sang phú quý của quý tộc, đối lập với cuộc sống cực khổ của nhân dân lao động.

Kinh Thi vừa là tác phẩm văn học có giá trị vừa là một tấm gương phản ánh tình hình xã hội Trung Quốc đương thời, ngoài ra nó còn được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tư tưởng.

Khổng Tử đánh giá rất cao về Kinh Thi: “Các trò sao không học Thi? Thi có thể cảm phát tâm trí làm cho người ta phấn khởi, có thể nhận xét thấy rõ những điều hay dở của bản thân mình, có thể biết cách sống chung với quần chúng, có thể biết cách xử trí khi gặp cảnh oán hận. Gần có thể ăn ở hết lòng hết sức với cha mẹ, xa có thể một lòng một dạ với quân vương. Còn biết thêm nhiều tên chim muông cây cỏ” (Luận ngữ, thiên Dương Hoá)[1]

Về sau Tần Thuỷ Hoàng chủ trương pháp trị đã ra lệnh đốt Kinh Thi. Kinh Thi hiện nay còn gọi là Mao Thi (do họ Mao đứng ra chép lại).

- Sở Từ: là những bài dân ca của nước Sở và những sáng tác của Khuất Nguyên – nhà thơ, nhà yêu nước sống ở nước Sở vào khoảng thế kỷ IV – III TCN). Đây là tập thơ khá dài gồm 5 chương:

+ Cửu ca: những bài ca tế thần và những anh hùng lịch sử đã bỏ mình vì nước

+ chiêu hồn: những bài thơ Khuất Nguyên miêu tả thế giới địa ngục

+ thiên vấn: viết dưới dạng hỏi và đáp về thiên văn, địa lý, lịch sử, thánh nhân, đạo đức

+ cửu chương: chín bài thơ phản ánh tâm tình bi phẫn của Khuất Nguyên trên đường đi đày

+ ly tao: (sầu ly biệt): chương hay nhất, thể hiện tình cảm sâu kín, tình yêu quê hương đất nước của Khuất Nguyên.

* Khuất Nguyên (340 – 278 TCN), tên là Bình, tự là Nguyên, cùng họ với vua nước Sở. Bình làm chức tả đô đời Sở Hoài Vương, học rộng, nhớ lâu, thấy rõ lẽ trị loạn, thạo việc giấy tờ. Vào cung thì cùng vua bàn tính việc nước, ban bố các mệnh lênh, ra thì tiếp đãi khách khứa, ứng đối với chư hầu. Nhà vua rất tin dùng. Đại phu Thượng quan cùng ông ngang hàng, tranh được vua yêu, trong bụng ghen ghét tài năng.

Hoài Vương sai Khuất Nguyên làm pháp lệnh. Khuất Nguyên nháp bản thảo chưa xong, đại phu Thượng quan trông thấy muốn cướp lấy, Khuất Nguyên không cho, ông ta bèn gièm với vua:

- Bệ hạ sai Khuất Bình làm pháp lệnh, không ai là không biết. Một khi lệnh ban ra, Bình lại khoe công của mình, nói: “Ngoài ta ra, chẳng ai làm nổi”. Nhà vua giận, bỏ rơi Bình.

Khuất Bình gặp nỗi nhà vua nghe không phân biệt phải trái, để lời gièm pha che lấp óc sáng suốt, để kẻ gian ác làm hại người trung thành, khiến cho người ngay không có chỗ dung thân, cho nên lo buồn, nghĩ ngợi mà làm ra Ly tao

“Ly tao” là buồn trong chia ly. Ly Tao là bài thơ trữ tình dài đầu tiên (373 câu, có 2490 chữ) trong lịch sử văn học Trung Quốc. Có người cho là “tiền thế vị văn, hậu thế mạc kế” (đời trước không hề thấy, đời sau không hề bì kịp)

Một số câu thơ trong Ly Tao nói về tinh thần yêu nước của Khuất Nguyên:

- Một mình chịu ngậm sầu nuốt tủi

Nói ai hay nông nỗi lúc này

Thà cho sống đoạ thác đày

Lòng ta không nở để lây thói thường.

- Phân thây xé xác đã đành

Lòng này hồ dễ dỗ dành được sao![2]

Vua Sở không nghe lời nói phải, để mất nước vào tay nhà Tần. Khuất Nguyên đau đớn nhảy xuống sông Mịch La (tỉnh Hà Nam) tự vẫn (278 TCN). Tương truyền ông qua đời vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, được nhân dân thương nhớ và kỷ niệm ngày mất của ông bằng ngày Tết Đoan Ngọ. Năm 1953, Hội đồng Hoà bình thế giới làm lễ kỷ niệm lần thứ 2230 năm Khuất Nguyên qua đời, sau đó UNESCO đưa ông vào danh sách danh nhân văn hoá thế giới.

Ly Tao đã thể hiện tập trung lòng yêu nước thương dân, tinh thần bất khuất không chịu hoà mình với thế tục xấu xa và nỗi đau khổ không thực hiện được lý tưởng chính trị tốt đẹp của Khuất Nguyên.

Tư Mã Thiên đã đánh giá Khuất Nguyên rất cao:

“Văn ông gọn, lời ông dịu, chí ông sạch, nết ông cao, chữ dùng ít, nhưng ý rất nhiều. Điển diễn gần mà nghĩa khá xa. Chí ông sạch cho nên hay nói đến các hoa thơm. Nết ông cao cho nên dù chết cũng không chịu buông thả. Quằn quại trong vũng lầy, trút lốt khỏi chỗ nhơ đục để cất mình ra ngoài đám bụi trần, chẳng để cho đời dơ bẩn. Thật là ở bùn mà chẳng lây đen…Suy chí ông ra, dù thi sáng với mặt trăng, mặt trời cũng được…”

(Sử Ký, Khuất Nguyên liệt truyện)[3],

b. Thời phong kiến: Trung Quốc có kho tàng văn học rất phong phú với nhiều thể loại: thơ, phú, từ, kịch, tiểu thuyết

* Thơ Đường là đỉnh cao của nghệ thuật thơ ca Trung Quốc. Trong gần 30 năm tồn tại, thời Đường đã để lại tên tuổi của hơn 2000 nhà thơ với gần 50.000 tác phẩm.

Không những có số lượng rất lớn mà thơ Đường còn có giá trị rất cao về tư tưởng và nghệ thuật.

Thơ Đường có hai loại chính: thơ ngũ ngôn (mỗi câu 5 chữ) và thơ thất ngôn (mỗi câu 7 chữ)

Trong mỗi loại đó, có 3 thể: cổ phong, luật thi và tứ tuyệt

Cổ phong: thơ tự do, chỉ cần có vần, không giới hạn số chữ số câu

Luật thi: thơ 8 câu, 4 hoặc 5 vần, mỗi câu 5 hoặc 7 chữ, luật bằng trắc đối nhau giữa các chữ trong câu 3-4, câu 5-6, các câu 3 và 2,5, câu 4 và 6,7 phải đúng niên (cùng một luật bằng trắc)

Tứ tuyệt: thơ 4 câu, tuân theo luật bằng trắc, nhưng không đối cũng được

Một số tác giả nổi tiếng: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị

Lý Bạch: (701 -762): tự Thái Bạch, được mệnh danh là tiên thơ (thi tiên). Lý Bạch sinh tại làng Thanh Liêm, huyện Long Xuyên, xứ Tây Thục (nay là huyện Miên Dương, tỉnh Tứ Xuyên). Ông là con người phóng khoáng, không chịu mọi sự trói buộc nào. Các nhà thơ Đường phần lớn đều qua thi cử rồi ra làm quan, nhưng Lý Bạch (dù học rất giỏi, 15 tuổi đã đọc hết sách Bách gia chư tử và các loại kỳ thư), nhưng không chịu vào kinh ứng thí mà ở nhà học kiếm rồi mơ ước trở thành một hiệp khách. Lý Bạch đi rất nhiều, ông đã đi khắp đất nước. Lý Bạch còn có hiệu là Thanh Liêm cư sĩ. Lý Bạch đã để lại cho đời hơn 2000 bài thơ. Thơ ông chủ yếu miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên, cảnh núi sông hùng vĩ, lời thơ bay bổng, hào hùng, mang màu sắc lãng mạn. Những bài thơ tiêu biểu nhất của ông là “Hành lộ nan” (Đường đi khó), “Vọng Lư sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư).

Nắng rọi hương Lô khói tía bay

Xa trông dòng thác trước sông này

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây

(Xa ngắm thác núi Lư)

Đỗ Phủ (712 – 770), sinh ra ở huyện Củng (Hà Nam), quê gốc ở Tương Dương (Hồ Bắc) trong một gia đình dòng dõi quý tộc nhưng đã sa sút. Đỗ Phủ tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng. Con đường thi cử của ông không thành đạt, cả đời chỉ giữ những chức quan nhỏ, nhiều khi phải sống trong cảnh túng thiếu và loạn lạc. Đỗ Phủ từng kết thân với Lý Bạch, có thời cùng nhau đi du ngoạn săn bắn.

Tác phẩm của Đỗ Phủ còn lại “Đỗ Lăng tập”, gồm 1453 bài thơ.

Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực, được mệnh danh là “thi sử” (sử viết bằng thơ)

Sáng tác của ông thể hiện như một bức tranh toàn cảnh rộng lớn, bao gồm nội dung chiến tranh, đời sống binh lính, cuộc sống người dân thời buổi loạn ly, đặc biệt là số phận người phụ nữ cực khổ trăm bề. Vì vậy, ông được đánh giá là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn nhất thời Đường, đồng thời lớn nhất trong văn học cổ điển Trung Quốc.

Bạch Cư Dị (772 – 846) tự là Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn, là nhà thơ hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc thời Trung Đường. Ông đã từng thi đỗ Tiến sĩ, ra làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình. Nhưng con đường quan chức của ông cũng nhiều gập ghềnh, khi thăng khi giáng. Bạch Cư Dị là người thanh liêm, chính trực, có tư tưởng tiến bộ, lại sống vào thời đại sau loạn An - Sử nên ông đã viết ra những bài thơ chua chát, vạch trần tội ác của giai cấp thống trị và nói lên nỗi thống khổ của nhân dân. Bạch Cư Dị là người sáng tác thơ nhiều nhất ở đời Đường, ông đã để lại khoảng 2800 bài thơ, trong đó, nổi tiếng nhất là “Trường hận ca” (Bài ca trường hận) và “Tỳ bà hành” (Bài ca đàn tì bà), được coi là những kiệt tác của thơ Đường.

Thơ Đường đặt cơ sở cho nghệ thuật, phong cách cho nền thi ca Trung Quốc các thời kỳ sau này. Thơ Đường cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca Việt Nam thời trung đại.

* Phú

Là hình thức văn học kết hợp văn xuôi và văn vần, lời văn gọt giũa công phu, câu trên đối với câu dưới. Phú chủ yếu phát triển ở thời Tây Hán với những tên tuổi nổi tiếng: Giả Nghị, Tư Mã Tương Như.

* Từ

Ra đời vào cuối đời Đường, là một hình thức biến thể của thơ Đường. Từ là thơ được phổ vào những điệu nhạc có sẵn. Vì vậy mà số câu, số chữ, âm điệu của từ tuỳ thuộc vào các điệu nhạc. Do đó các câu thơ của từ dài ngắn không đều nhau, không bị ràng buộc bởi các quy tắc chặt chẽ như thơ Đường. Thời nhà Tống, từ phát triển nhất với tên tuổi Tô Đông Pha (Tô Thức)

- Tô Thức (hay Tô Đông Pha) (1037 – 1101), tự Tử Chiêm, khi ở ẩn xưng là Đông Pha cư sĩ nên thường gọi là Tô Đông Pha, người Mi Sơn, Tứ Xuyên. Cùng với cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt được gọi là “Tam Tô” và được liệt vào hàng: “Tám nhà văn lớn thời Đường - Tống”. Ông là một học giả uyên bác, thi đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi, từng làm tri châu ở nhiều địa phương, nhưng do chính kiến khác với tể tướng Vương An Thạch nên hay bị bài xích, giáng chức. Ông mất ở Thường Châu, để lại khoảng 4000 bài thơ, hơn 300 bài từ và nhiều bài văn xuôi có giá trị. Tiêu biểu: “Vườn họ Lý”, “Ly Sơn”, “Thuỷ điệu ca đầu”, “Uống rượu ở Tây Hồ”.

* Kịch

Hình thức văn học tiêu biểu nhất thời Nguyên, các nhà biên kịch đã sáng tác được khoảng 500 kịch bản, lưu truyền đến nay chỉ còn hơn 100 vở. Những tác giả tiêu biểu: Quan Hán Khanh với tác phẩm “Đậu Nga oan” (Nỗi oan của nàng Đậu Nga), “Bái nguyệt đình” (Nhà đón trăng)…; Vương Thực Phủ với tác phẩm “Tây sương ký” (Mái tây)

Quan Hán Khanh (1229? – 1307?), chưa rõ tên thật, hiệu là Dĩ Trai (còn có hiệu là Nhất Trai), người Đại Đô (nay là Bắc Kinh). Ông đã soạn 63 vở tạp kịch, nay chỉ còn 13 vở là có đủ lời hát và nhạc khúc. Nổi tiếng là Đậu Nga Oan, Cứu phong trần, Bái nguyệt đình, Đơn đao hội

 Vở kịch Đậu Nga Oan tố cáo gay gắt chế độ chính trị đen tối đương thời (đời Nguyên), không đảm bảo quyền sống của con người, ca ngợi tinh thần phản kháng của nhân dân, đồng thời thể hiện niềm tin của quần chúng vào sự thắng lợi của công lý.

Vương Thực Phủ (thế kỷ XIII) đời Nguyên, tên Đức Tín, người Đại Đô (Bắc Kinh nay), ông viết đến 40 vở tạp kịch, đến nay chỉ còn lại ba vở: Tây Sương Ký, Phá dao ký, Lệ Xuân đường. Trong đó, Tây Sương Ký là vở kịch thành công nhất của Vương Thực Phủ, là vở tạp kịch dài nhất đời Nguyên (gồm 5 phần, mỗi phần 4 chương, mỗi chương 4 màn).

Vở kịch kể về cuộc tình duyên của Thôi Oanh Oanh (tiểu thư xinh đẹp, con một vị tướng quốc) với một hàn sĩ là Trương Quân Thuỵ. Khi tướng quốc chết, hai mẹ con Thôi Oanh Oanh về quê, vì gặp hoạn nạn, nên tạm lánh ở chùa Phổ Cứu. Trương Quân Thuỵ, một thư sinh nghèo đến vãn cảnh chùa, gặp Oanh Oanh, say mê trước sắc đẹp của nàng, Trương Sinh tìm cách trọ lại chùa. Đêm đến, chàng ngâm thơ tình, Oanh Oanh hoạ lại. Tôn Phi Hổ, thủ lĩnh toán giặc cướp, vây chùa đòi lấy Oanh Oanh. Thôi phu nhân tuyên bố ai giải vây được chùa sẽ gả con gái cho. Trương Sinh viết thư nhờ tướng quân Đỗ Xác ở gần Bồ Thành, là người bạn cũ, đến giải vây, bắt được tướng giặc Tôn Phi Hổ. Nhưng sau khi thoát nạn, Thôi phu nhân thất hứa, nói đã gả Oanh Oanh cho cháu mình là Trịnh Hằng và cho phép Oanh Oanh nhận Trương Sinh là anh. Trương Sinh và Oanh Oanh đều đau khổ. Chiều tối, Trương Sinh ôm đàn gảy khúc tự tình, tỏ nỗi lòng với Oanh Oanh. Oanh Oanh đến bên cửa sổ nghe Trương Sinh gảy đàn vô cùng cảm động. Trương Sinh đau khổ sinh ốm tương tư, Oanh Oanh cũng rất khổ não. Hồng Nương là đầy tớ gái của Oanh Oanh trở thành cầu nối giữa hai người. Từ đó hai người bí mật đi lại với nhau như vợ chồng. Chuyện vỡ lỡ, trước lý lẽ phải trái của Hồng Nương, Thôi phu nhân đành tác thành cho đôi trẻ, nhưng bắt Trương Sinh phải vào kinh thi hội, đỗ mới cho kết hôn. Trương Sinh đỗ trạng nguyên, được giữ lại làm quan ở triều đình. Oanh Oanh vui mừng khôn xiết, nhưng Trịnh Hằng đến chơi với Thôi phu nhân phao tin bậy là Trương Sinh đã lấy vợ khác ở Kinh Thành. Thôi phu nhân tin là thật, định gả Oanh Oanh cho Trịnh Hằng. Trương Sinh về kịp, phải nhờ tướng quân Đỗ Xác phân giải. Đỗ Tướng quân mắng Trịnh Hằng, doạ tố cáo hắn tội cướp vợ người, Trịnh Hằng sợ hãi, đập đầu vào cây tự tử. Đỗ Tướng quân làm chủ hôn cho Oanh Oanh và Trương Sinh.

Vở kịch phản ánh nguyện vọng tự do yêu đương và tự do kết hôn của thanh niên man mữ dưới chế độ phong kiến hà khắc, bắt buộc phải “môn đăng hộ đối” và “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”[4]

* Tiểu thuyết Minh – Thanh

Là thể loại văn học bắt đầu xuất hiện và phát triển nhất ở thời Minh – Thanh. Được hình thành dựa trên cơ sở những câu chuyện kể rong, sau đó được các nhà văn tập hợp lại viết thành tiểu thuyết có chương, có hồi. Những tác phẩm nổi tiếng như: Thuỷ Hử (Thi Nại Am), Tam Quốc chí (La Quán Trung), Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân), Nho lâm ngoại sử (Ngô Kính Tử), Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)

- Thi Nại Am – “Thủy Hử”

Thi Nại Am (1296? – 1370?) tự là Nhĩ, hiệu là Tử An, sống ở cuối đời Nguyên đầu đời Minh, quê ở Giang Tô. Đã từng ra làm quan nhưng tính tình cương trực nên làm quan không được bao lâu.

“Thuỷ Hử” (còn có tên là “Giang hồ hảo khách truyện”) - (thuỷ là nước, hử là bến) – “câu chuyện bến nước”, kể lại cuộc đấu tranh cách mạng - khởi nghĩa nông dân Lương Sơn Bạc do Tống Giang lãnh đạo chống lại giai cấp thống trị đời Bắc Tống. Tư tưởng cơ bản trong tác phẩm là tư tưởng của nông dân “thay trời hành đạo”. Thành công lớn nhất là tác giả đã sáng tạo ra những hình tượng anh hùng nông dân sống mãi trong lòng nhân dân Trung Quốc.

Nguyên tác Thuỷ Hử của Thi Nại Am đã không còn. Bộ Thuỷ Hử ngày nay được lưu truyền là do Kim Thánh Hán (đời Thanh) chỉnh lý lại gồm 71 hồi.

- La Quán Trung – “Tam quốc chí diễn nghĩa”

La Quán Trung tên La Bản, tự Quán Trung, sống cuối đời Nguyên, đầu đời Minh (khoảng 1328 – 1398). Ngoài “Tam quốc chí diễn nghĩa”, ông còn viết tiểu thuyết khác: “Tuỳ Đường lưỡng triều chí truyện”, “Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa”…nhưng những tiểu thuyết này không còn nguyên tác mà đã bị thay đổi nhiều.

Tiểu thuyết “Tam quốc chí diễn nghĩa” được sáng tác dựa vào những dã sử, truyền thuyết, truyện kể dân gian, thoại bản, tạp kịch đời Nguyên, có tham khảo bộ chính sử “Tam quốc chí” của Trần Thọ (đời Tấn), “Tam quốc chí chú” của Bùi Tùng Chi (đời Nam - Bắc triều).

“Tam quốc chí diễn nghĩa” là bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc, gồm 240 hồi, kể lại cuộc chiến tranh kéo dài gần 100 năm (184 – 280) giữa các tập đoàn quân phiệt sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa nông dân Khăn vàng năm 184, đến khi 3 tập đoàn phong kiến Nguỵ - Thục – Ngô thành lập Tam quốc và cuối cùng là nhà Tần thống nhất lại Trung Quốc. Tác phẩm đã diễn tả rất sinh động những nhân vật, những cuộc chiến tranh tàn khốc, những tai hoạ và nỗi thống khổ của nhân dân…Tác phẩm là một bộ bách khoa về lịch sử, quân sự, về quan hệ xã hội…Tiểu thuyết Tam quốc chí diễn nghĩa về sau được Mao Tôn Cương (đời Thanh) chỉnh lý còn 120 hồi và thêm lời bàn, hiện nay đang được lưu truyền.

- Ngô Thừa Ân – “Tây du ký”

Ngô Thừa Ân (1500 – 1583) - cuối đời Minh, tự Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương sơn nhân, sinh ở Giang Tô. Thuở nhỏ nổi tiếng văn hay chữ tốt, nhưng thi cử lận đận. Đến năm 45 tuổi mới đỗ Cống sinh (cử nhân). Làm thừa lại ở huyện nhưng do tính tình ngạo mạn nên chẳng bao lâu từ quan. Sau đó đến Hàng Châu sống bằng nghề viết văn. Ông viết Tây Du Ký năm 71 tuổi.

“Tây du ký” là bộ tiểu thuyết lãng mạn mang màu sắc thần thoại, kể lại chuyện Đường Tam Tạng (nhà sư Trần Huyền Trang) cùng ba đồ đệ là Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng sang Tây Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh Phật. Sự tích Huyền Trang tây du đã được chính Huyền Trang ghi lại trong cuốn “Đại Đường Tây Vực ký” (sự thực Huyền Trang đã một mình sang Ấn Độ xin kinh Phật, vượt qua 5 vạn dặm, qua 128 nước lớn nhỏ, đi về mất 17 năm – 629 đến 645). Câu chuyện có thật đó đã được thần thoại hoá và truyền tụng rộng rãi trong dân gian. Ngô Thừa Ân đã dày công thu thập, và viết thành bộ “Tây du ký” gồm 100 hồi.

“Tây du ký” đã thể hiện kín đáo tư tưởng bất mãn, căm giận hiện thực xã hội đen tối thời Minh. Tác giả phê phán, đả kích, thậm chí lật nhào toàn bộ những thần tượng trong đời sống tinh thần của xã hội phong kiến từ Ngọc Hoàng, Diêm Vương, Long Vương và đủ loại thần thánh, đến Nho giáo, đạo Giáo và các thứ đạo đức phong kiến. Tây Du ký còn phản ánh lý tưởng tự do, bình đẳng cũng như tinh thần khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên tai địch hoạ của nhân dân và tầng lớp thị dân mới trỗi dậy thời bấy giờ, dưới hình ảnh Tôn Ngộ Không.

Tây Du ký là tác phẩm lãng mạn mang tính chất thần thoại thành công nhất trong các tác phẩm cổ điển Trung Quốc[5] (theo Những mẩu chuyện, tr 70 – 71)

- Ngô Kính Tử  (tiểu thuyết gia lớn đời Thanh) và “Nho lâm ngoại sử”

Ngô Kính Tử (1701 – 1754), tên chữ là Mẫn Hiên, hiệu Lạp Dân, về già lại lấy hiệu Văn Mộc lão nhân, người tỉnh An Huy. Ông xuất thân trong một giai đình có truyền thống khoa cử đỗ đạt, nhưng ông không chịu đi thi và tiếp nhận cuộc sống nghèo khổ, nhưng cao ngạo chứ không chịu cúi gập đầu. Năm 49 tuổi, ông viết xong “Chuyện làng Nho” (Nho lâm ngoại sử) nhưng 10 năm sau mới được khắc in.

“Nho lâm ngoại sử” là bộ tiểu thuyết “lịch sử không chính thức” (ngoại sử) của các nhà Nho, trình bày những tấm gương phản diện và chính diện và các nhà Nho, trong đó chủ yếu nói đến sự đồi bại của chế độ khoa cử và sự sụp đổ không cứu vãn được của phong hoá. Đây là một tác phẩm châm biếm nổi tiếng.

- Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc - đời Thanh với “Hồng Lâu Mộng”

Tào Tuyết Cần (1716? – 1763?), tên là Triêm, tự Mông Nguyên, xuất thân trong một gia đình quý tộc người Hán, nhập Quốc tịch Mãn Châu, cha là quý tộc quan lại nhà Thanh nhưng đến đời vua Ung Chính thì bị cách chức, từ đó gia cảnh sa sút, cuộc sống túng thiếu. Do đó, Hồng Lâu Mộng có thể xem là những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ.

Con đường khoa cử của Tào Tuyết Cần gặp nhiều lận đận dù ông có tài thơ văn. Ông luôn sống trong cảnh bần hàn cô độc và bất đắc chí, nhận rõ sự mục nát và thói hư tật xấu của bọn vua quan phong kiến Mãn Thanh.

Trong lịch sử văn học Trung Quốc, Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt, người Trung Quốc say mê đọc Hồng Lâu Mộng, “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên” (Mở miệng nói chuyện mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích)

Hồng Lâu Mộng (giấc mộng lầu hồng, giấc mộng lầu son) gồm 120 hồi, nhưng Tào Tuyết Cần mới viết xong 80 hồi đầu thì mất (ông viết 80 hồi đầu trong vòng 10 năm – “Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết, cay đắng mười năm khéo lạ lùng”, năm lần sửa chữa trong cảnh cùng khốn ốm đau, không tiền chạy thuốc, ông đã mất trong cảnh đau khổ dồn dập đó). Hơn 20 năm sau Cao Ngạc đã viết tiếp 40 hồi sau, đến khoảng 1792 – 1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp Trung Quốc.

Tác phẩm Hồng Lâu Mộng viết về câu chuyện hưng suy của một gia đình quý tộc phong kiến họ Giả và câu chuyện tình giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, nhưng qua đó đã vẽ nên bộ mặt xã hội phong kiến Trung Quốc trong giai đoạn suy tàn. Bằng cách xây dựng cho hai nhân vật chính Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc tính cách chống đối chế độ thi cử, chế độ quan trường, đạo đức và lễ giáo phong kiến, khát vọng tự do và hạnh phúc…tác giả đã đánh trực tiếp và khá mạnh vào ý thức hệ của giai cấp phong kiến lúc bấy giờ. Hồng Lâu Mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng văn học hiện thực cổ điển Trung Quốc, đồng thời được coi là kiệt tác của nhân loại.

3. Sử học

Sử học ở Trung Quốc phát triển rất sớm và Trung Quốc có một kho tàng sử sách rất phong phú.

- Thời Thương, trong các tài liệu văn tự giáp cốt tìm được có chứa đựng một số tư liệu lịch sử quý giá, có thể coi đó là mầm mống của việc chép sử.

- Ngay từ thời Tây Chu đã có những viên quan chuyên chép sử. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã xuất hiện những bộ sử đầu tiên: sách “Xuân Thu”, “Tả truyện”, “Chiến Quốc sách”, “Lã Thị Xuân Thu”…

Quyển “Xuân Thu” của Khổng Tử biên soạn lại trên cơ sở quyển sử của nước Lỗ, là quyển sử do tư nhân biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc. Tác phẩm này ghi chép các sự kiện lịch sử trong 242 năm, từ năm 722 đến năm 481 TCN, ghi chép các sự kiện lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao của 124 nước chư hầu.

Tự đánh giá về ảnh hưởng của sách Xuân Thu, Khổng Tử nói: “Kẻ hiểu ta là do sách Xuân Thu, kẻ lên án ta cũng là do sách Xuân Thu”. Còn Tư Mã Thiên thì đánh giá rất cao giá trị của Xuân Thu: “Từ khi cái nghĩa (tư tưởng) của sách Xuân Thu lưu hành, loạn thần tặc tử trong thiên hạ đều sợ hãi”. Đến thời Hán, Xuân Thu được coi là một trong Ngũ kinh của nhà Nho.

- Thời Tây Hán, sử học Trung Quốc bắt đầu trở thành một lĩnh vực độc lập, mà người đặt nền móng đầu tiên là Tư Mã Thiên. “Sử ký” của Tư Mã Thiên là bộ thông sử đầu tiên của Trung Quốc, ghi chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm từ thời Hoàng đế đến thời Hán Vũ đế.

Tư Mã Thiên (khoảng 145 – 86 TCN), tự là Tử Trường, sinh ra trong một gia đình có truyền thống làm quan viết sử (tổ tiên ông từ đời Chu đã làm Thái sử, đến đời cha ông là Tư Mã Đàm làm Thái sử lệnh đời nhà Hán). Năm 10 tuổi, Tư Mã Thiên đã học các sách cổ sử và thuộc lòng những bài văn thơ nổi tiếng. Năm 20 tuổi, ông đi tham quan du lịch hầu khắp đất nước để lấy tài liệu viết sử. Khi trở về, ông được Hán Vũ Đế phong cho làm Lang Trung, một chức quan nhỏ tháp tùng xa giá nhà vua trong các chuyến đi công cán. Năm 108 TCN, ông được phong làm Thái sử lệnh thay cha ông đã mất. Từ đó, ông miệt mài ngày đêm biên soạn Sử ký, thực hiện hoài bão lớn nhất của cha ông và cũng là mong ước duy nhất của ông.

Năm 99 TCN, Tư Mã Thiên đã ca ngợi Lý Lăng, trái với ý vua Hán Vũ Đế nên bị khép tội khi quân và trở thành thái giám. Phẫn uất và xấu hổ, ông đã tính đến tự vẫn, nhưng vì việc biên soạn bộ Sử ký chưa xong nên ông đành gượng sống.

Sử ký của Tư Mã Thiên là bộ thông sử đồ sộ theo kiểu bách khoa toàn thư trải suốt 3000 năm lịch sử từ thời Hoàng đế đến Hán Vũ Đế, gồm 526.500 chữ chia làm 130 chương, gồm: 12 bản kỷ (sự tích các vua), 10 biểu (bảng tổng kết về niên đại), 8 thư (lịch sử các chế độ, các ngành riêng biệt như lễ, nhạc, kinh tế…), 30 thế gia (lịch sử các quý tộc chư hầu, những người có danh vọng), 70 liệt truyện (truyện các nhân vật lịch sử). Sử ký đề cập đến các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, chế độ điển chương, học thuật, văn hoá, y dược, bói toán, hoạt động của các nhân vật thuộc mọi tầng lớp xã hội, thiên văn, địa lý, quan hệ giữa các dân tộc, giao lưu với nước ngoài…đề xướng nhân nghĩa, chống bạo lực, chiến tranh, coi trọng hoạt động sản xuất…

Tư Mã Thiên là người đầu tiên trong các sử gia trên thế giới ghi chép lịch sử bằng thể ký. Sử ký đã để lại cho đời sau những tư liệu lịch sử hết sức có giá trị, đồng thời cũng là một kiệt tác văn học được Lỗ Tấn ca ngợi là “Lời hát tuyệt vời của các sử gia, thiên Ly Tao không vần”. Sử ký của Tư Mã Thiên được xếp vào hàng những tác phẩm đồ sộ, bất hủ của nhân loại.[6]

Bên cạnh “Sử ký” còn có một số bộ sử khác như: “Hán Thư” của Ban Cố, “Hậu Hán Thư” của  Phạm Diệp, “Tam Quốc chí” của Trần Thọ. Cùng với “Sử ký”, ba tác phẩm này được gọi là “Tiền tứ sử” (bốn bộ sử trước)

- Thời Đường bắt đầu có cơ quan biên soạn lịch sử do nhà nước thành lập được gọi là sử quán, từ đó về sau các bộ sử của các triều đại đều do nhà nước biên soạn.

- Đến thời Minh, Trung Quốc đã biên soạn được 24 bộ sử, sau thêm “Tân Nguyên sử”“Thanh sử cảo” thành 26 bộ sử.

Ngoài ra còn nhiều tác phẩm như “Sử thông” của Lưu Tri Cơ, “Thông điển” của Đỗ Hữu đời Đường, “Tư trị thông giám” của Tư Mã Quang đời Tống…

“Sử thông” là tác phẩm viết về phương pháp biên soạn lịch sử sớm nhất của Trung Quốc, trong đó tác giả bình luận tất cả các tác phẩm sử học đời trước về các mặt như phương pháp biên soạn, việc sử dụng tư liệu, cách hành văn…

“Thông điển” là quyển sử đầu tiên viết về lịch sử từng lĩnh vực như kinh tế, chế độ thi cử, chức quan…từ thời thượng cổ cho đến giữa thế kỷ VIII.

“Tư trị thông giám” là bộ sử biên niên rất lớn ghi chép lịch sử từ thời Chiến Quốc đến thời Ngũ Đại.

- Thời Minh – Thanh có nhiều bộ bách khoa toàn thư được biên soạn hết sức đồ sộ như: “Vĩnh Lạc đại điển”, “Cổ kim đồ thư tập thành”“Tứ khố toàn thư”…Trong đó có nhiều thành tựu về sử học.

“Vĩnh Lạc đại điển” do vua Minh Thành Tổ (niên hiệu Vĩnh Lạc) tổ chức biên soạn, đó là công trình tập thể của hơn 2000 người làm việc trong 5 năm, gồm 11.095 tập, là bộ Bách khoa toàn thư rất lớn của Trung Quốc, nhưng đến nay chỉ còn hơn 300 tập.

“Cổ kim đồ thư tập thành” biên soạn dưới thời Khang Hy (nhà Thanh) được chia thành 10.000 chương, là bộ Bách khoa toàn thư lớn thứ hai sau Vĩnh Lạc đại điển.

“Tứ khố toàn thư” biên soạn dưới thời Càn Long đời Thanh, chia thành 36.000 tập, gồm 4 phần: Kinh (sách kinh điển của Nho gia), Sử, Tử (tác phẩm của các học giả thời Chiến Quốc), Tập (văn, thơ, từ, khúc). Tuy nhiên khi biên soạn, vua Thanh đã ra lệnh bỏ đi nhiều tác phẩm bị coi là không có lợi cho nhà Thanh, đồng thời những tác phẩm được chọn vào cũng bị cắt xén và sửa chữa nên giá trị của bộ sách này cũng bị hạn chế phần nào. (GV liên hệ: tác phẩm Việt sử lược, công trình tổng hợp về lịch sử - địa lý – chính trị Đại Việt cuối thời Trần được tìm thấy trong bộ Tứ khố toàn thư)

  1. Khoa học tự nhiên

a. Toán học

- Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, người Trung Quốc đã biết phép đếm lấy 10 làm đơn vị.

- Thời Tây Hán, xuất hiện tác phẩm toán học đầu tiên: “Chu bễ toán kinh”. Trong tác phẩm này chứa đựng rất nhiều kiến thức: lịch pháp, thiên văn, hình học, số học, đặc biệt đây là tác phẩm toán học sớm nhất của Trung Quốc đã đề cập đến mối quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông giống như định lý Pitago.

- Thời Đông Hán có tác phẩm “Cửu chương toán thuật” nói về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia, phương pháp khai căn bậc hai, bậc ba, phương trình bậc 1, số âm, số dương, cách tính diện tích các hình, thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và thể tích hình cầu, quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông…

- Thời Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều: Lưu Huy và Tổ Xung Chi là hai nhà toán học nổi tiếng nhất. Lưu Huy đã chú giải sách “Cửu chương toán thuật”, tìm được số π (số viên chu xuất) bằng tỉ số 3927 : 1250 = 3,1416. Tổ Xung Chi là người sớm nhất thế giới tìm được số π rất chính xác gồm 7 số lẻ nằm giữa hai số 3,1415926 và 3,1415927.

- Thời Đường: nhà sư Nhất Hạnh đã nêu ra công thức phương trình bậc hai, Vương Hiếu Thông soạn “Tập cổ toán kinh”, dùng phương trình bậc ba để giải quyết nhiều vấn đề toán học.

- Thời Tống, Nguyên, Minh lại càng có nhiều nhà toán học, tiêu biểu là Giả Hiến, Thẩm Quát đời Tống. Giả Hiến đã tìm ra được phương pháp giải các phương trình bậc cao, Thẩm Quát đã nêu ra cách tính độ dài của cung và dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung. Thời kỳ Tống, Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra bàn tính, rất thuận lợi cho việc tính toán.

b. Thiên văn học và phép làm lịch

* Thiên văn học

- Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, người Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn.

- Thời Thương, tài liệu giáp cốt đã có chép về nhật thực và nguyệt thực, là những tài liệu sớm nhất thế giới ghi chép về hiện tượng này.

- Sách Xuân Thu có chép trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay chứng minh được 33 lần là hoàn toàn chính xác. Sách Xuân Thu còn chép năm 613 TCN, “sao Bột nhập vào Bắc đẩu”. Đó là ghi chép về sao chổi Halây sớm nhất trong lịch sử thế giới. Chu kỳ của sao chổi này là 76 năm, sau này người ta biết được sao chổi Halây đã đi qua Trung Quốc 31 lần.

- Sách Hán thư là tài liệu ghi chép sớm nhất về điểm đen trong Mặt Trời: ngày Ất Mùi tháng 3 năm 28 TCN, “Mặt Trời hiện ra màu vàng, có điểm đen lớn như cục sắt hiện ra giữa Mặt Trời”

- Nhà thiên văn học nổi tiếng Trung Quốc là Trương Hành (78 – 139 TCN), người thời Đông Hán. Ông đã biết được ánh sáng của Mặt Trăng là nhận của Mặt Trời, là người lần đầu tiên giải thích được rằng nguyệt thực là do Mặt trăng nấp sau bóng của Trái Đất, trong tác phẩm “Linh hiến”, ông cho rằng vũ trụ là vô hạn, sự vận hành của hành tinh nhanh hay chậm là do cự ly cách quả đất gần hay xa. Ông còn cho rằng thiên thể hình cầu như vỏ quả trứng, trái đất như lòng đỏ, trên cơ sở ấy chế tạo mô hình thiên thể dùng sức nước để chuyển động gọi là “hồn trương” hay “hồn thiên ghi”, khi mô hình này chuyển động thì các vì sao trên đó cũng di chuyển.

Trương Hành còn chế tạo ra dụng cụ đo động đất đầu tiên trên thế giới gọi là “địa động nghi” có thể đo một cách chính xác phương hướng của động đất.

* Lịch pháp

Trung Quốc sớm có lịch nhờ những hiểu biết thiên văn từ rất sớm.

- Theo truyền thuyết, thời Hoàng Đế đã có lịch chia một năm thành 12 tháng.

- Đời Thương, người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa vòng quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời để đặt ra lịch. Lịch này chia 1 năm thành 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày, lúc đầu cứ 3 năm thêm 1 tháng nhuận hoặc 5 năm thêm 2 tháng nhuận, sau đến giữa thời Xuân Thu thì cứ 19 năm thêm 7 tháng nhuận.

Lịch đời Thương lấy tháng 12 âm lịch làm tháng đầu năm, lịch đời Chu lấy tháng 11 âm lịch làm tháng đầu năm.

- Đến thời Hán Vũ Đế, lịch Trung Quốc được cải cách gọi là lịch Thái sơ, lấy tháng giêng âm lịch làm tháng đầu năm, về cơ bản loại lịch này được dùng cho đến ngày nay.

- Từ thời Xuân Thu người Trung Quốc đã biết chia 1 năm làm 4 mùa, 8 tiết là lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia 1 năm thành 24 tiết, trong đó có 12 trung khí và 12 tiết khí. Thường thì mỗi tháng có 1 trung khí, tháng nào không có trung khí thì thành tháng nhuận.

- Người Trung Quốc xưa chia 1 đêm thành 12 giờ và dùng 12 địa chi để đặt tên giờ, mỗi giờ chia thành 8 khắc.

Người Trung Quốc dùng cái cọc gọi là “khuê” để đo bóng mặt trời, để xác định ngày hạ chí, đông chí. Để đo thời gian, người Trung Quốc dùng “nhật quỹ”: là một cái đĩa tròn trên mặt có khắc 12 giờ và 96 khắc, đặt nghiêng song song với bề mặt của đường xích đạo, ở giữa có một cái kim cắm theo hướng bắc nam, khi mặt trời di chuyển thì bóng của kim cũng di chuyển trên mặt đĩa có khắc giờ.

Đến đời Chu, Trung Quốc đã phát minh ra “lậu hồ” (bình có lỗ rò) để đo thời gian. Lúc đầu lậu hồ chỉ có một bình, dưới đáy có lỗ rò. Nước trong bình vơi đến đâu thì biết lúc đó giờ gì, về sau người ta xếp một hệ thống 4 – 5 bình, nước từ bình trên cùng nhỏ dần xuống các bình dưới. Trong bình dưới cùng có một cái phao gắn một thanh tre nhỏ trên đó có khắc giờ. Nước trong bình dâng lên thì thanh tre chỉ giờ cũng dâng lên cao hơn miệng bình, có thể biết được giờ khắc. Cái bình này thường làm bằng đồng nên dụng cụ đo thời gian này gọi  là “đồng hồ trích lậu” (cái bình bằng đồng rò nước). Đến đầu thế kỷ XVII, đồng hồ của phương Tây truyền vào Trung Quốc, từ đó loại đồng hồ nước mới không dùng nữa.

Năm 1276, một nhà nghiên cứu thiên văn học là Quách Thủ Kính đã chế tạo được một chiếc đồng hồ cơ giới báo giờ bằng tiếng chuông, đặt ở điện Đại Minh trong Hoàng thành. Đồng hồ báo chuông của Quách Thủ Kính ra đời sớm hơn đồng hồ báo chuông của châu Âu gần 400 năm.

Tuy nhiên, những dụng cụ đo thời gian nói trên chủ yếu được dùng ở nơi cung phủ, còn phần lớn dân chúng Trung Quốc xưa tính giờ theo lối cổ truyền như căn cứ vào bóng nắng, độ di chuyển lên cao xuống thấp của Mặt Trời, Mặt Trăng, tiếng gà gáy…

c. Y dược học

- Từ thời Chiến quốc, đã xuất hiện một tác phẩm y học nhan đề là “Hoàng đế nội kinh” nêu ra những vấn đề về sinh lý, bệnh lý và nguyên tắc chữa bệnh như “chữa bệnh phải tìm tận gốc”, phải “tìm mầm mống phát sinh” của bệnh.

- Cuối thời Đông Hán, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách “Thương hàn tạp bệnh luận” chủ yếu nói về cách chữa bệnh thương hàn, đến nay vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung Quốc.

- Thầy thuốc nổi tiếng sớm nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống vào thời Chiến Quốc. Ông tên thật là Trần Việt Nhân, biết chữa nhiều loại bệnh, được tôn sùng là người khởi xướng ngành mạch học ở Trung Quốc.

Hoa Đà (? – 208) là thầy thuốc giỏi các khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu, trong đó ngoại khoa là sở trường. Hoa Đà đã phát minh ra phương pháp dùng rượu để gây mê trước khi mổ cho bệnh nhân, mổ xong khâu lại, dùng cao dán lên chỗ mổ, gọi chung là trị bệnh bằng phẫu thuật. Về sau ông bị Tào Tháo giết chết.

- Thời Minh, nhà y dược học nổi tiếng là Lý Thời Trân (1518 – 1593) với tác phẩm “Bản thảo cương mục” trong đó ghi chép 1892 loại cây thuốc, phân loại, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình cây thuốc đó. Đây không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực vật học quan trọng.

5. Bốn phát minh lớn về kỹ thuật

GV giới thiệu, kết hợp phát vấn với SV.

Trung Quốc là quê hương của bốn phát minh lớn: kim chỉ nam, thuốc súng, giấy và kỹ thuật ấn loát (in ấn).

a. Kỹ thuật làm giấy

- Từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, người Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép, sớm hơn là dùng xương thú, mai rùa, kim loại, đá.

- Đến thời Tây Hán, nhờ sự phát triển của nghề tơ tằm, người Trung Quốc đã chế tạo ra một loại giấy thô sơ bằng vỏ kén con tằm, loại giấy này sần sùi, không phẳng, gai, chủ yếu dùng để gói hàng.

- Thời Đông Hán, năm 105, có một viên hoạn quan là Thái Luân đã phát minh ra việc chế tạo giấy có chất lượng tốt bằng nguyên liệu như vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách,…

Thái Luân dùng một thứ dung dịch (nước tro thảo mộc hoặc nước vôi) vị chua, làm cho nguyên liệu bớt keo, trong hơn, dùng chổi đánh cho các thứ xơ tơi ra, tăng nhiệt độ chế hồ giấy cao hơn, do đó chất lượng hồ giấy tốt hơn, mặt giấy làm ra đều, trơn, phẳng. Nguyên liệu chủ yếu là vỏ cây “chử” (cây dó) sẵn có, sản phẩm làm ra tốt, nhiều, rẻ nên được sử dụng phổ biến.

Thái Luân được vua Hán phong tước “Long Đình hầu” và nhân dân gọi giấy của ông làm ra là “giấy Thái hầu”, phong ông là ông tổ của nghề làm giấy.

Từ đó, kỹ thuật làm giấy của người Trung Quốc được cải tiến thành dây chuyền:

+ bước 1: làm tơi nguyên liệu bằng cách ngâm, dầm, hay nấu, làm cho hồ giấy tách khỏi chất keo, phân tán thành xơ

+ bước 2: khuấy đảo làm cho xơ vụn ra thành hồ

+ bước 3: cho nước vào hồ thành dung dịch rồi bỏ lên sàng, sàng qua sàng lại cho hồ kết thành những tấm mỏng ươn ướt nước

+ bước 4: sấy, phơi, nén, ép thành từng trang.

Cho đến ngày nay công nghệ chế tạo giấy không khác phương pháp của người Trung Quốc thời cổ bao nhiêu.

- Từ thời Tây Tấn, kỹ thuật chế tạo giấy được truyền bá sang các nước láng giềng: Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Độ, Ả rập, rồi từ Ả Rậptruyền sang châu Â. Sau khi nghề làm giấy được truyền bá rộng rãi, các chất liệu dùng để viết trước kia như lá cây ở Ấn Độ, giấy papyrút ở Ai Cập, da cừu ở châu Âu…đều bị giấy thay thế. Kỹ thuật làm giấy được coi là cuộc cách mạng trong việc truyền bá chữ viết của nhân loại.

b. Kỹ thuật in

- Kỹ thuật in bắt nguồn từ việc khắc chữ trái trên các con dấu đã có từ đời Tần.

- Hiện nay chưa rõ kỹ thuật in chính xác ra đời từ bao giờ, chỉ biết rằng đến giữa thế kỷ VII (thời Đường) đã có kỹ thuật in. Sử sách chép lúc bấy giờ nhà sư Huyền Trang đã cho in một số lượng lớn phổ hiền tượng để phân phát bốn phương, như thế là chậm nhất lúc này Trung Quốc đã phát minh và ứng dụng thuật in ấn. Năm 1966, ở Hàn Quốc phát hiện được kinh Đàlani in vào khoảng năm 704 – 751, đây là ấn phẩm cổ nhất trên thế giới đã phát hiện được. Theo nghiên cứu thì kinh này khắc in ở Tây An, vì thuật in ấn đã được phát minh từ thế kỷ VII ở Trung Quốc.

- Kỹ thuật in lúc đầu là bằng ván khắc, quá trình in đại thể như sau: chọn thứ gỗ chắc, thớ nhỏ, cưa thành những tấm ván theo quy cách nhất định, trên đó khắc nổi chữ trái, hoặc hình vẽ trái, sau đó xoa mực, đặt tờ giấy lên in. Kỹ thuật in ván khắc mất công, mất thời gian, nhưng công nghệ giản đơn, ít tốn, lại có thể in đi in lại nhiều lần nên được dùng rất phổ biến.

- Đến thế kỷ XI, một người dân thường là Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung. Các con chữ được xếp lên một tấm sắt có phủ sáp, nhựa thông và tro giấy, xung quanh có khung sắt giữ lại,  xếp xong đem hơ nóng cho sáp chảy ra, dùng một tấm ván ép cho bằng mặt rồi để nguội. Như vậy sáp đã giữ chặt lấy chữ và có thể đem in. In xong, lại hơ lửa cho tan chất hồ, gỡ chữ bỏ vào ô gỗ lúc đầu. Công nghệ in chữ rời tương đối giản đơn, hiệu suất cao, sử dụng và bảo tồn chữ rời tiện lợi, không mất công, mất thì giờ như in bản khắc, tốn gỗ, hiệu suất thấp, giữ gìn bản khắc phức tạp.

- Sau đó, Thẩm Quát đã thử dùng chữ gỗ thay thế chữ đất sét nung nhưng chưa có kết quả, đến thời Nguyên, Vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng con chữ rời bằng gỗ.

- Từ thời Đường, kỹ thuật in ván khắc của Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Philippin, Ả Rậprồi truyền sang châu Phi, châu Âu. Năm 1448, Guttenbéc (người Đức) đã dùng chữ rời bằng hợp kim và dùng mực dầu để in kinh thánh, đặt cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay.

c. La bàn (kim chỉ nam)

- Từ thế kỷ III TCN, Trung Quốc đã biết được từ tính của đá nam châm, phát minh ra một dụng cụ chỉ hướng gọi là “tư nam”: làm bằng sắt có từ thiên nhiên, mài thành hình cái thìa để trên một cái đĩa có khắc các phương hướng, cán thìa sẽ chỉ hướng nam. Nhược điểm: sắt có từ thiên nhiên khó mài, gia công phức tạp, dễ mất từ, lại nặng nề, lực ma sát lớn, chuyển động không nhạy, chỉ hướng không được chính xác nên không được dùng phổ biến. Mặc dù vậy, tư nam vẫn được xem là tổ tiên của kim chỉ nam.

- Đến đời Tống, thế kỷ XI, người Trung Quốc đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo. Họ dùng kim sắt, mài mũi kim vào đá nam châm để thu từ tính rồi dùng kim đó để làm “la bàn”. Lúc đầu la bàn còn thô sơ: xâu kim nam châm qua cọng rơm, sợi bấc đèn rồi thả trên bát nước gọi là “thuỷ la bàn”, hoặc treo kim nam châm bằng một sợi tơ ở chỗ kín gió.

- La bàn chủ yếu được các thầy phong thuỷ sử dụng để xem hướng đất, đến cuối thời Bắc Tống thì được sử dụng trong việc đi biển. Trước kia, người đi biển nhìn vào mặt trời, mặt trăng và các vì sao mà định phương hướng. Gặp ngày mưa gió âm u, không thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao thì thường hay bị lạc đường, va vào đá ngầm hoặc mắc cạn vào bãi cát nổi. Lúc đầu, kim chỉ nam được dùng để bổ trợ cùng với việc xem thiên văn cho người đi biển (đêm xem sao, ngày xem mặt trời, lúc âm u xem kim chỉ nam”. Từ Nam Tống trở về sau, kim chỉ nam trở thành nghi khí chỉ hướng chủ yếu của ngành hàng hải, việc xem thiên văn trở thành bổ trợ.

Nhờ có kim chỉ nam, người đi biển vẽ được bản đồ hàng hải và làm sổ tay hàng hải. Ứng dụng kim chỉ nam vào hàng hải làm cho kỹ thuật hàng hải cải tiến nhanh, mở một kỷ nguyên mới cho hàng hải nhân loại. Đời Nam Tống và đời Nguyên, ngành hàng hải Trung Quốc phát triển rất cao, đầu đời Minh, Trịnh Hoà đi thuyền xuống Tây Dương đều gắn liền với việc ứng dụng kim chỉ nam.

- Nửa sau thế kỷ XII, la bàn được truyền sang Ả Rậprồi sang châu Âu, người châu Âu cải tiến thành “la bàn khô” tức là la bàn có khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỷ XVI, la bàn khô lại truyền trở lại Trung Quốc, dần dần thay thế la bàn nước.

d. Phát minh ra thuốc súng (thuốc nổ)

Thuốc nổ Trung Quốc gọi là “hoả dược” (thuốc lửa, hay thuốc phát ra lửa), thành phần cơ bản là lưu huỳnh, diêm tiêu và than, ba thứ trộn lại thành thuốc nổ đen xưa nhất.

- Đây là phát minh hết sức ngẫu nhiên của các đạo sĩ thuộc phái Đạo gia. Khi luyện đan (tạo ra thuốc trường sinh bất lão), nguyên liệu được sử dụng là lưu huỳnh, diêm tiêu và than gỗ, nhưng quá trình luyện thường hay gây ra những vụ nổ, cháy nhà, bỏng tay, bỏng mặt…nên các thầy thuốc thường dùng hoả dược để “trị ghẻ lở, sát trùng, chống phong thấp, ôn dịch”, các nhà luyện đan đã ghi lại kinh nghiệm đó để người pha chế chú ý đề phòng.

- Cuối đời Đường, hoả dược được dùng làm vũ khí chiến tranh, nhưng lúc đầu chủ yếu người ta chỉ lợi dụng tính năng dễ bén lửa của hoả dược để tăng hiệu lực hoả công trong chiến tranh để đốt doanh trại của địch như hoả tiễn, hoả pháo (hoả tiễn là đầu mũi tên có buộc một bọc hoả dược, châm ngòi, dùng cung nỏ bắn, còn hoả pháo là lấy hoả dược gói thành bao, châm ngòi, lấy máy ném đá bắn).

- Việc chế tạo thuốc súng phát triển mạnh vào thời Tống. Trong chiến tranh Tống – Kim thời Nam Tống, quân Tống có dùng loại “chấn thiên lôi”, khi hoả dược nổ, tiếng to như sấm, sức nóng toả ra hơn nửa mẫu đất, người và da bò nát vụn, không còn dấu vết, giáp sắt cũng thủng, tính năng bộc phá của hoả dược đã tương đối lớn. Trần Quy đời Tống phát minh ra hoả khí hình ống (hoả thương) năm 1132: hoả thương làm bằng ống tre to, hai người vác, lúc dùng, nạp hoả dược vào, lâm chiến thì đốt ngòi, ngọn lửa phun ra thiêu cháy địch.

- Đầu thế kỷ XIV, đời Nguyên đã có “đồng hoả súng” (súng bằng đồng): bắn đạn đá, nạp hoả dược vào thân súng, cuối súng có ngòi, châm ngòi thì bắn đạn đá ra.

- Đến thế kỷ XIII, thuốc súng được truyền sang châu Âu thông qua người Ả Rập(người Mông Cổ trong quá trình tấn công Trung Quốc đã học tập được cách làm thuốc súng của người Trung Quốc, sau đó họ chinh phục Tây Á, truyền kỹ thuật làm thuốc súng cho người Ả rập, người Ả Rậplại truyền thuốc súng và súng vào châu Âu qua Tây Ban Nha).

→ Những phát minh trên đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt thế giới. Nghề in, nghề làm giấy đã góp phần thay đổi trên bình diện văn học, thuốc súng thay đổi trên bình diện kỹ thuật quân sự, la bàn thay đổi trên bình diện hàng hải. Từ đó dẫn đến sự thay đổi trên các lĩnh vực khác. Đây là những phát minh có ý nghĩa toàn nhân loại.

Các Mác đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát minh và ứng dụng các kỹ thuật chế tạo thuốc súng, làm kim chỉ nam và kỹ thuật ấn loát đối với sự ra đời của xã hội tư bản: “ba đại phát minh dự báo xã hội tư bản đến gần, thuốc nổ phá tan giai tầng kỵ sĩ, còn thuật in ấn thì trở thành công cụ của Tân giáo, tóm lại biến thành phương tiện phục hưng khoa học, biến thành đòn bẩy mạnh mẽ vô cùng, tiền đề tất yếu để phát triển tinh thần” (dẫn theo) [7]. Nhưng ở Trung Quốc, những phát minh này đã không được sử dụng vào những mục đích khoa học. Lỗ Tấn đã phê phán: “Người nước ngoài sử dụng kỹ thuật làm giấy và ấn loát để phát triển văn hoá khoa học, còn người Trung Quốc thì dùng giấy và kỹ thuật in ấn để sản xuất kinh sách; người nước ngoài dùng chất cháy nổ làm đạn dược để chống quân thù, còn người Trung Quốc thì chủ yếu lại dùng nó để cúng lễ thần linh, trừ tà ma; người nước ngoài dùng kim chỉ nam để phát triển ngành hàng hải, còn người Trung Quốc thì chủ yếu lại dùng nó vào việc xem đất cát đặt mồ mả theo thuật phong thuỷ”[8]

6. Triết học, tư tưởng, tôn giáo

Ở Trung Quốc, triết học, tư tưởng, tôn giáo nhiều khi lồng vào nhau. GV chọn vấn đề Nho giáo để giảng dạy, những vấn đề khác giới thiệu nét tiêu biểu.

a. Âm dương – Bát quái – Ngũ hành – Âm dương gia

Âm dương, bát quái, ngũ hành là những thuyết mà người Trung Quốc nêu ra từ thời cổ đại nhằm giải thích nguồn gốc của vạn vật.

- Âm dương: người Trung Quốc cho rằng trong vũ trụ có 2 yếu tố cơ bản tồn tại dưới dạng khí là âm và dương. Dương có các tính chất: giống đực, ánh sáng, nóng, hoạt động, rắn rỏi…Âm có các tính chất ngược lại: giống cái, bóng tối, lạnh, đứng yên, mềm mỏng. Âm và dương luôn tác động và chuyển hoá cho nhau. Âm dương tương phản nhưng không tương khắc, trong âm có dương, trong dương có âm. Âm dương được gọi là lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng (bốn mùa), tứ tượng sinh ra bát quái.

Trong vũ trụ: Mặt trời là dương, mặt trăng là âm, ban ngày Mặt Trời mọc, ban đêm mặt trăng thay thế, tạo nên ngày và đêm. (Nhật vãn tắc Nguyệt lai, Nguyệt vãn tắc Nhật lai).

Bốn mùa (tứ tượng): cũng là do sự vận hành của âm dương mà ra.

Trong cơ thể con người, máu từ tim chảy ra là máu đỏ (dương), máu về tim: máu đen (âm).

Trong toán học: âm (chẵn), dương: lẻ

Trong quan niệm sống chết: âm: cõi chết, dương: dương thế → người sống thường kiêng số chẵn.

Âm dương bổ trợ cho nhau để cùng tồn tại: tất cả vạn vật biến hoá trong vũ trụ do âm dương không diệt nhau mà bổ trợ cho nhau tạo nên sự vận hành vận động của thế giới vật chất (nắng – dương, mưa – âm, kết hợp làm cho cây cối tốt tươi, vạn vật sinh sôi nảy nở). Âm dương gặp nhau sinh ra vạn vật: “Nhị khí giao cảm hoá sinh vạn vật” (Lão Tử), “vạn vật đều cõng âm và dương”

- Bát quái: là 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới.

Càn: Trời, Khôn: đất, Chấn: sấm, Tốn: gió, Khảm: nước, Ly: lửa, Cấn: núi, Đoài: hồ. Trong bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất.

Trong quan hệ gia đình: Càn: cha, Khôn: mẹ, Chấn: con trai cả, Tốn: con trai giữa, Khảm: con trai út, Ly: con gái cả, Cấn: con gái giữa, Đoàn: con gái út.

Thuyết bát quái chứa đựng tính chất duy vật và biện chứng (coi 8 yếu tố vật chất cấu tạo nên vũ trụ, cho rằng sự vật luôn phát triển), tuy nhiên vẫn có nhiều yếu tố duy tâm, thiếu cơ sở khoa học, thường được dùng trong việc bói toán.

- Ngũ hành: 5 yếu tố vận động (mang tính biện chứng) cấu thành thế giới vật chất. Năm yếu tố này cũng tương sinh, tương thành nhưng lại đối lập nhau: Mộc (gỗ), Hoả (lửa), Thổ (đất), Kim (không khí), Thuỷ (nước).

Ngũ hành là bản thể của âm và dương, là sự tồn tại của các dạng vật chất trên thế giới.

- Âm dương gia: là trường phái tư tưởng ra đời vào thời Chiến quốc dựa vào thuyết “Âm dương ngũ hành” để giải thích sự biến hoá trong giới tự nhiên và sự phát triển của xã hội.

+ Nêu ra quy luật về mối tương sinh, tương khắc của Ngũ hành để giải thích sự biến đổi của vạn vật.

Tương sinh (vòng tròn): Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc

Tương khắc (ngôi sao): Mộc Khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc.

 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mộc: mùa xuân, phương Đông, màu xanh, vị chua…

Hoả: mùa hạ, phương Nam, màu đỏ, vị đắng…

Thổ: giữa hạ và thu, trung ương, màu vàng, vị ngọt

Kim: màu thu, phương Tây, màu trắng, vị cay…

Thuỷ: mùa đông, phương Bắc, màu đen, vị mặn…

Sự biến chuyển của 4 mùa là tuân theo quy luật Ngũ hành tương sinh.

b. Nho gia – Nho giáo

- Là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên là Khổng Tử (thời Xuân Thu), sau được Mạnh Tử (thời Chiến quốc) và Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) phát triển và hoàn chỉnh.

* Khổng Tử (551 – 479 TCN)

Tên là Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà tư tưởng lớn và nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ đại. Tương truyền ông có đến 3000 học trò, trong đó có 72 người hiền (thất thập nhị hiền)

- Bên cạnh việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu, trong đó sách Nhạc bị thất truyền, 5 quyển còn lại sau trở thành tác phẩm kinh điển của Nho gia (gọi là Ngũ kinh)

- Những lời nói của Khổng Tử và những câu hỏi của học trò được chép thành sách Luận ngữ, chứa đựng những tư tưởng cơ bản của Khổng Tử.

- Tư tưởng cơ bản của Khổng Tử

+ về mặt triết học: Khổng Tử ít quan tâm đến việc giải thích nguồn gốc của vũ trụ. Về trời đất quỷ thần, ông có quan niệm không rõ ràng, một mặt cho rằng trời là giới tự nhiên, mặt khác lại cho rằng trời có thể chi phối số phận của con người, một mặt thì hoài nghi “chưa rõ được việc thờ người, làm sao biết được việc thờ thần”, mặt khác lại rất coi trọng cúng tế, “tế thần xem như có thần”

+ về mặt đạo đức: bao gồm nhiều mặt như “nhân”, “lễ”, “nghĩa”, “trí”, “tín”, “dũng”,…trong đó Khổng Tử đặc biệt đề cao chữ “nhân”

“Nhân” có nghĩa là lòng thương người, “điều mà mình không muốn thì đường làm cho người khác”, “mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”. Đối với bản thân, nhân có nghĩa là phải “kiềm chế mình làm theo đúng lễ”, “không hợp với lễ thì không nhìn, không hợp với lễ thì không nghe, không hợp với lễ thì không nói, không hợp với lễ thì không làm”“Nhân” là phạm trù rất rộng, gần với đạo đức.

Đề cao “nhân”, Khổng Tử còn chú trọng đến “lễ”, coi “nhân” là gốc, là nội dung, còn “lễ” là biểu hiện của “nhân”, “người không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được”

“Lễ” còn có thể điều chỉnh “nhân” cho đúng mực. Khổng Tử nói “cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì làm loạn, thẳng thắn mà không biết lễ thì làm phật ý người khác”.

+ Về đường lối trị nước: Khổng Tử chủ trương “đức trị”, “cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục”.

Nội dung “đức trị” gồm: làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học hành.

Biện pháp để thi hành đường lối đức trị là “phải thận trọng trong công việc, phải giữ được chữ tín, tiết kiệm trong công việc chi dùng, thương người, sử dụng sức dân vào thời gian hợp lý”

Tính bảo thủ: chủ trương những quy chế, lễ nghi được đặt ra từ thời Tây Chu là không được thay đổi.

+ về giáo dục: Khổng Tử là người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. Mục đích giáo dục theo Khổng Tử là uốn nắn nhân cách và bồi dưỡng nhân tài, phương châm là tiên học lễ hậu học văn, học phải đi đôi với hành.

Ông nói “các trò vào phải hiếu với cha mẹ, ra phải kính mến các anh, nói năng phải thận trọng và thành thực, yêu thương mọi người và gần gũi người có lòng nhân. Sau khi thực hành đầy đủ các điều nói trên thì dành sức lực để học văn hoá”

Khổng Tử rất coi trọng phương pháp giảng dạy, chú ý dẫn dắt học trò để họ có thể suy nghĩ rút ra kết luận, tuỳ theo trình độ, tính cách từng học trò mà dùng những phương pháp dạy khác nhau. Đối với học trò, ông yêu cầu họ phải khiêm tốn, cầu thị “biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, thế mới thực là biết”.

Trong thời đại của ông, chủ trương chính trị của ông chưa được trọng dụng.

* Mạnh Tử (371 – 289 TCN)

- Mạnh Tử người nước Trâu (cũng thuộc Sơn Đông ngày nay), là học trò của Tử Tư (tức Khổng Cấp – cháu nội của Khổng Tử). Ông là người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia thêm một bước

+ Về mặt triết học:

Mạnh Tử tin ở mệnh trời, cho rằng mọi việc đều do trời quyết định, tuy vậy những bậc quân tử tu dưỡng đến mức cực thiện cực mĩ có thể cảm hoá được ngoại giới.

+ Về đạo đức: Mạnh Tử có hai đóng góp mới

  • Cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm sinh, có sẵn gọi là tính thiện, “nhân chi sơ tính bản thiện”, được biểu hiện ở nhân, nghĩa, lễ, trí. Nếu được giáo dục tốt thì tính thiện bẩm sinh ấy sẽ đạt đến cực thiện, ngược lại, nếu không được giáo dục tốt thì bản tính tốt ấy sẽ mất đi.
  • Trong nhân, nghĩa, lễ, trí thì Mạnh Tử coi trọng nhất là nhân nghĩa

+ Về chính trị: Mạnh Tử nhấn mạnh nhân chínhthống nhất.

Nhân chính tức là dùng đạo đức để trị nước (giống quan điểm của Khổng Tử), “dùng sức mạnh để bắt người ta phục thì không phải là người ta phục từ trong lòng mà vì sức không đủ. Lấy đức để làm cho người ta phục thì trong lòng người ta vui và thực sự là phục vậy”.

Điểm cốt lõi trong đường lối nhân chính là tư tưởng quý dân. “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý nhất, đất nước thứ hai, vua thì coi nhẹ)

Thống nhất: chủ trương muốn chấm dứt chiến tranh giữa các nước thời Chiến Quốc để toàn Trung Quốc được thái bình. Biện pháp thực hiện thống nhấtnhân chính

+ Về giáo dục: chủ trương mở rộng giáo dục đến mọi tầng lớp để dạy cho học sinh cái nghĩa hiếu, đễ.

Thời Chiến Quốc, những tư tưởng của Mạnh Tử cũng bị coi là viển vông, không phù hợp với hoàn cảnh nên không được các nước chư hầu chấp nhận.

* Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN)

Đến Đổng Trọng Thư, học thuyết Nho gia được phát triển và hoàn chỉnh. Năm 136 TCN, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” (bỏ các phái khác, đề cao phái Nho gia). Từ đó, Nho gia bắt đầu trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc.

+ Về triết học: Đổng Trọng Thư có hai điểm mới là thuyết “thiên nhân cảm ứng” và dùng âm dương ngũ hành để giải thích mọi việc.

“Thiên nhân cảm ứng” là nói về mối quan hệ tác động qua lại giữa trời và người. Đổng Trọng Thư khẳng định: “Trời là thuỷ tổ của muôn vật cho nên bao trùm tất cả không có ngoại lệ”. Giữa trời và người có mối quan hệ qua lại, trời có thể chi phối hoạt động của con người, ngược lại sự cố gắng hết sức của con người cũng có thể tác động đến trời.

Đổng Trọng Thư dùng thuyết âm dương ngũ hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn vật của ông, do đó cũng góp phần phát triển thuyết âm dương ngũ hành thêm một bước.

“Giữa trời đất, có hai khí âm dương bao trùm lấy con người giống như nước thường ngập con cá, chỗ khác với nước là có thể thấy và không thể thấy mà thôi”. Đổng Trọng Thư cho rằng trời trọng dương, không trọng âm.

Đối với ngũ hành, Đổng Trọng Thư nêu ra quy luật: liền nhau thì sinh nhau, cách nhau thì khắc nhau. (thứ tự của ngũ hành là Mộc - Hoả - Thổ - Kim - Thuỷ → Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc; và Mộc khắc Thổ, Hoả khắc Kim, Thổ khắc Thuỷ, Kim khắc Mộc, Thuỷ khắc Hoả)

+ Về đạo đức: Đổng Trọng Thư nêu ra thuyết “tam cương”, “ngũ thường”, “lục kỉ”.

“Tam cương” là ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ, trong đó, bề tôi, con và vợ phải phục tùng vua, cha, chồng. Vua, cha, chồng là dương, bề tôi, con, vợ là âm, mà trời trọng dương chứ không trọng âm nên bề tôi, con, vợ phải ở địa vị phục tùng.

“Ngũ thường” là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những nội dung này đã có trong tư tưởng Khổng, Mạnh nhưng đến Đổng Trọng Thư mới ghép thành một hệ thống và coi đó là 5 tiêu chuẩn đạo đức thông thường nhất của người quân tử.

“Lục kỉ” là 6 mối quan hệ với những người ngang hàng với cha, mẹ, anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè.

“Tam cương”, “ngũ thường” đã trở thành những tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của Nho giáo và đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự của xã hội phong kiến ở Trung Quốc.

+ Về chính trị: Đổng Trọng Thư chỉ cụ thể hoá tư tưởng của Khổng - Mạnh như: hạn chế sự chênh lệch giàu nghèo, hạn chế sự chiếm đoạt ruộng đất, bỏ nô tì, trừ các tệ chuyên quyền giết người, giảm nhẹ thuế khoá, bỏ bớt lao dịch, chú trọng việc giáo dục.

Đến Đổng Trọng Thư, Nho gia đã trở thành Nho giáo. Khổng Tử được tôn làm giáo chủ của đạo Học.

* Sự phát triển của Nho học đời Tống

Nho học đời Tống giải thích nguồn gốc của vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất mà họ gọi là khí, có trước khí. Do đó, những người theo quan điểm này được gọi là phái lý học.

- Người đầu tiên khởi xướng lý học là Chu Đôn Di (1017 – 1073), ông cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là thái cực, hay vô cực, thái cực có hai thể độngtĩnh, động sinh ra dương, động cực lại đến tĩnh. Tĩnh sinh ra âm, tĩnh cực lại đến động.

- Đồng thời với Chu Đôn Di có Thiệu Ung (1011 – 1077): cho rằng thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.

- Trình Hạo (1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107), Chu Hy (1130 – 1200)…cũng là những nhà lý học nổi tiếng. Trình Di và Chu Hy nêu ra phương pháp nhận thức “cách vật trí tri” nghĩa là phải thông qua việc nghiên cứu các sự vật cụ thể để hiểu được cái của sự vật, tức là các khái niệm trừu tượng. Hai ông cũng tách Đại họcTrung dung trong sách lễ ký thành hai sách riêng, từ đó Đại họcTrung dung được gộp với Luận ngữ, Mạnh Tử thành bộ kinh điển thứ hai của Nho gia, gọi là Tứ thư.

→ Có thể nói, Nho giáo được xem là quốc giáo, là chỗ dựa, cơ sở của chế độ phong kiến Trung Quốc. Với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc hơn 2.000 năm, Nho giáo đã đóng góp quan trọng về các mặt tổ chức xã hội, bồi dưỡng đạo đức, phát triển văn hoá giáo dục. Nhưng đến cuối thời kỳ phong kiến, do tính bảo thủ của nó, Nho giáo đã trở thành vật cản tạo nên sự trì trệ của xã hội Trung Quốc.

c. Đạo gia và Đạo giáo

* Đạo gia

Lão Tử là người đề xướng, Trang Tử là người phát triển học thuyết Đạo gia → còn được gọi là học thuyết Lão – Trang.

- Lão Tử: tức Lão Đam, tên Lý Nhĩ, người nước Sở, sống vào thời Xuân Thu. Ông có soạn một quyển sách gồm hai thiên nói về “đạo”  và “đức”, là nội dung cốt lõi của quyển Lão Tử (sau còn gọi là cuốn “Đạo đức kinh”)

Tư tưởng của Lão Tử:

+ Về triết học: tư tưởng của Lão Tử chứa đựng yếu tố duy vật biện chứng thô sơ. Ông cho rằng “đạo” là nguồn gốc của vũ trụ. Đạo là một khối hỗn độn, đạo có sớm hơn cả trời đất, quỷ thần. Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Sự vật vận động theo một quy luật gọi là “đức” (khác với khái niệm đức trong phạm trù đạo đức luân lý của Nho gia)

Ông nhận thức được các mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng, các mặt này luôn chuyển hoá cho nhau: cuộc sống con người có hoạ, có phúc, vạn vật có dài có ngắn, có nóng có lạnh, có cứng có mềm…

+ Về đường lối chính trị: Lão Tử chủ trương vô vi, nước nhỏ, dân ít và ngu dân. Ông cho rằng cách tốt nhất làm cho xã hội thái bình là giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sống của nhân dân, không thu thuế quá nhiều, không sống xa hoa, đối với nhân dân chỉ cần “làm cho tâm hồn họ thì trống rỗng nhưng bụng họ thì no, chí của họ yếu nhưng xương cốt của họ mạnh” thì họ sẽ không ham muốn và đấu tranh. → tư tưởng của Lão Tử vừa có yếu tố tích cực, vừa có điểm tiêu cực.

- Trang Tử (khoảng 369 – 286 TCN): tên là Trang Chu, người nước Tống, sống vào thời Chiến Quốc.

Tư tưởng của Trang Tử:

+ Về mặt triết học: Trang Tử cũng thừa nhận đạo là nguồn gốc của sự vật, nhưng từ chỗ cho rằng vạn vật đều do đạo sinh ra, ông đi đến chỗ phủ nhận tồn tại khách quan, cho rằng “trời đất và ta cùng sinh ra vạn vật với ta là một”. Mặt khác, Trang Tử đã biến những yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đối, nguỵ biện.

Trang Tử phủ nhận chân lý khách quan: đứng từ các phía khác nhau mà xét sự vật thì sẽ có những kết luận khác nhau. Do vậy, nếu cho là lớn thì vạn vật không có cái gì không lớn, nếu cho là nhỏ thì vạn vật không có cái gì không nhỏ, nếu cho là đúng thì vạn vật không có cái gì không đúng, nếu cho là sai thì vạn vật không có cái gì không sai…

Tư tưởng triết học của Trang Tử còn nhuốm màu thần học khi ông nêu ra một con người lý tưởng gọi là “chân nhân”, tức là đạt tới mức cao nhất của đạo: khi ngủ không thấy chiêm bao, khi tỉnh không có lo âu, ăn không biết ngon, không biết sống là đáng vui, không biết chết là đáng ghét, nhất thế cũng không hối tiếc, đắc thắng cũng không vui mừng, lên cao không sợ, xuống nước không ướt, vào lửa không nóng…

+ Về chính trị: Trang Tử cũng chủ trương vô vi, tiến xa hơn Lão Tử, ông chủ trương đưa xã hội trở lại thời nguyên thuỷ, nhân dân sống chung với chim muông, trở lại bản tính chất phác ban đầu.

→ chủ trương chính trị của Lão Tử và Trang Tử đều trái với tiến trình lịch sử nên không được giai cấp thống trị đương thời chấp nhận, nhưng tư tưởng của họ đã đặt cơ sở cho việc hình thành Đạo giáo ở Trung Quốc sau này.

* Đạo giáo

Thời Đông Hán, những hình thức mê tín trong xã hội Trung Quốc cổ đại đã kết hợp với học thuyết Đạo gia đưa đến sự ra đời của Đạo giáo với hai giáo phái: đạo Thái Bìnhđạo Năm Đấu Gạo.

- Đạo Thái Bình: người truyền bá là Trương Giác, lấy Thái Bình kinh làm kinh điển: một mặt tuyên truyền việc trường sinh bất tử, dùng phù phép tàn hương, nước lá để chữa bệnh, mặt khác đề xướng chủ nghĩa bình quân, chủ trương ai cũng phải lao động, phản đối bọn thống trị vơ vét tài sản.

Năm 184, dưới sự lãnh đạo của Trương Giác, tín đồ đạo Thái Bình nổi dậy khởi nghĩa (khởi nghĩa Khăn vàng), nhưng thất bại, đạo Thái Bình cũng tan rã.

- Đạo Năm Đấu Gạo: do Trương Lăng thành lập ở Tứ Xuyên (những người theo đạo phải nộp 5 đấu gạo), còn gọi là đạo Thiên Sư (do Trương Lăng tự xưng là Thiên Sư).

Đạo này tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái thượng lão quân”, lấy sách Lão Tử làm kinh điển.

Sau khi đạo Thái Bình và đạo Năm Đấu Gạo bị đàn áp, Đạo giáo bắt đầu bị phân hoá: một bộ phận vẫn lưu truyền trong dân gian, một bộ phận khác thì biến thành Đạo giáo chính thống. Đối tượng thờ cúng của Đạo giáo chính thống là Lão Tử và các vị tiên, mục đích tu luyện của các tín đồ là để trở thành các vị tiên trường sinh bất tử, phương pháp tu luyện là luyện khí công, nhịn ăn lương thực (tịnh cốc), luyện đan. Đạo giáo có ảnh hưởng đáng kể đến việc phát minh ra thuốc súng, phép dưỡng sinh ở Trung Quốc.

d. Pháp gia

- Là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước, xuất hiện từ thời Xuân Thu, do Quản Trọng khởi xướng.

- Đại biểu xuất sắc nhất của Pháp gia là Hàn Phi Tử (280? – 233 TCN)

- Tư tưởng của Hàn Phi Tử:

+ triết học: Hàn Phi Tử là nhà triết học duy vật vô thần, ông cũng cho rằng nguồn gốc của vũ trụ, vật chất, tinh thần đều do “đạo” sinh ra. Ông không tin có quỷ thần, cho rằng mọi sự vật luôn có sự thay đổi, lúc sống, lúc chết, lúc thịnh, lúc suy → tư tưởng biện chứng.

+ đường lối chính trị: Hàn Phi Tử cho rằng muốn cai trị nước tốt phải có 3 yếu tố: pháp, thế, thuật. “Pháp”: luật pháp, mệnh lệnh, hình phạt, “thế”: muốn cho luật pháp có hiệu lực trong thực tế, người nắm luật pháp phải có uy quyền, “thuật”: là phương pháp điều hành công việc, trong “thuật” bao gồm: bổ nhiệm (chọn người chỉ căn cứ vào tài năng, không cần đức hạnh dòng dõi), khảo hạch (luôn kiểm tra), thưởng phạt.

Về phát triển kinh tế: Hàn Phi Tử chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, quốc phòng.

Về văn hoá: Hàn Phi Tử cho rằng không cần mở mang văn hoá giáo dục, ông cho rằng học chỉ đem lại cái hại cho xã hội, cứ lấy luật pháp mà dạy dân, dùng quan lại làm thầy.

- Tuân Tử: tiếp tục phát triển tư tưởng của Hàn Phi.

Tuân Tử cho rằng con người chỉ biết đến quyền lợi của mình nên nảy sinh tranh chấp, do vậy con người mang sẵn tính ác. Vì vậy, muốn cai trị tốt thì phải thật nghiêm khắc, dùng hình phạt thật nặng.

Với chủ trương “pháp trị” của phái Pháp gia, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc, nhưng do quá nhấn mạnh trừng phạt, thủ tiêu văn hoá giáo dục nên mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, là một trong những nguyên nhân làm cho nhà Tần sụp đổ sau 15 năm tồn tại.

e. Mặc gia

- Người sáng lập là Mặc Tử (khoảng 468 – 376 TCN). Tư tưởng hạt nhân của Mặc Tử là thuyết “kiêm ái” (tình thương yêu con người). Ông cho rằng: thiên hạ khổ sở, biệt ly là vì không có tình thương yêu với nhau. Học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, ông chủ trương “phi công” (phản đối chiến tranh), “phi nhạc” (chống các lễ nhạc xa hoa phiền toái), “tiết dụng” (tiết kiệm trong ăn tiêu, chi dùng), “thượng hiền” (chọn người có tài đức để giúp nước, không kể họ xuất thân từ tầng lớp nào)

→ tư tưởng của Mặc Tử phản ánh được nguyện vọng của nhân dân lao động, nhưng mang tính không tưởng, vì vậy không được giai cấp thống trị áp dụng.

7. Giáo dục

a. Trường học:

- Đến đời Chu, nền giáo dục Trung Quốc đã có quy chế rõ ràng. Trường học thời Tây Chu chia làm hai loại quốc học và hương học. Trường quốc học là trường học ở kinh đô, trường hương học là trường học ở các địa phương.

- Thời Xuân Thu, nền quốc học của nhà Chu dần dần suy thoái, trường tư bắt đầu xuất hiện, người đầu tiên sáng lập trường tư thục là Khổng Tử.

- Từ đời Hán về sau, cùng với sự đề cao Nho giáo, nền giáo dục của Trung Quốc càng phát triển mạnh.

+ Thời Hán Vũ Đế (140 – 87 TCN), Thái học được thành lập

+ thời Tuỳ Đường, nhiều trường chuyên ngành được thiết lập: Quốc tử học, Thái học, Tứ môn học, Thư học, Toán học, Luật học, Y học, Thiên văn học

+ thời Tống, đặt ra chế độ “tam xá” ở trường Thái học: ngoại xá, nội xá, thượng xá (tương đương học vị tiến sĩ)

+ thời Minh – Thanh: các trường đại học do trung ương mở được tập trung lại thành Quốc tử giám. Ngoài Quốc tử giám, đời Thanh còn có “Tông học” và “Bát kỳ quan học” để dạy cho con em hoàng tộc và con em người Mãn Châu, Mông Cổ.

- Cuối thế kỷ XIX, sau chiến tranh thuốc phiện, nền giáo dục Trung Quốc chịu nhiều ảnh hưởng của nền giáo dục phương Tây, nhiều trường học kiểu mới được thiết lập thay thế trường học kiểu cũ.

b. Khoa cử

- Từ đời Hán đến Nam Bắc triều: chưa có khoa cử. Nhà Hán thi hành chính sách “sát cử”: giao cho các quan địa phương khảo sát và tiến cử những người có tài có đức trong khu vực do mình cai trị. Thời Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều, Trung Quốc thi hành chế độ “cửu phẩm trung chính”: triều đình phái các quan “trung chính” về các địa phương căn cứ theo tài năng và đức hạnh, chia những người có học thức ở trong vùng thành 9 hạng để nhà nước tuỳ tài mà bổ dụng.

- Thời Tuỳ - Đường: bắt đầu từ thời Tuỳ đặt ra chế độ khoa cử, khoa thi đầu tiên gọi là khoa thi Tiến sĩ.

Đến đời Đường, số khoa thi ngày càng nhiều: Tú tài, Minh kinh (hiểu rõ kinh sách), Minh pháp (nắm vững pháp luật), Minh toán (giỏi toán), Minh thư (giỏi viết chữ), trong đó hai khoa Tiến sĩ và Minh kinh là quan trọng nhất. Thời Đường đỗ Tiến sĩ chỉ mới đủ tư cách để làm quan, sau đó phải qua kỳ thi tuyển của bộ Lại, nếu trúng tuyển mới trở thành quan lại.

- Thời Tống: tiếp tục thực hiện chế độ khoa cử đời Đường, bổ sung thêm: nội dung thi nặng về kinh nghĩa (thời Đường chủ yếu thi thơ phú); định ra chế độ 3 năm thi một lần (thời Đường: 1-2 năm một lần); chia Tiến sĩ thành 5 cấp: nhất giáp, nhị giáp, tam giáp, tứ giáp, ngũ giáp; đặt thêm thi Hương…

- Thời Minh – Thanh: chế độ khoa cử càng hoàn bị và chặt chẽ hơn trước, gồm các cấp: thi Viện, thi Hương, thi Hội, thi Điện.

Trước khi thi Viện thì phải qua thi ở huyện, rồi đến thi ở phủ, đỗ 2 cấp này gọi là đồng sinh, đỗ cấp thi Viện gọi là Tú tài. Thi Hương: thi ở cấp tỉnh (3 năm một lần), những người đỗ Tú tài mới được dự thi, hoặc những người bỏ tiền ra mua và con cái quan lại được tập ấm cũng được dự thi. Những người trúng tuyển trong kỳ thi Hương gọi là Cử nhân, đỗ đầu gọi là Giải nguyên.

Thi Hội là kỳ thi tổ chức ở kinh đô do bộ Lễ chủ trì, tổ chức 3 năm một lần, người dự thi là các Cử nhân, thi đậu kỳ thi Hội được gọi là “cống sĩ” (tiến sĩ), đỗ đầu gọi là Hội nguyên.

Thi Điện (thi Đình) tổ chức ở trong cung vua, do hoàng đế làm chủ khảo, dự thi là những người đã đỗ Tiến sĩ, kết quả thi Điện được chia làm 3 cấp: nhất giáp, nhị giáp, tam giáp.

Nhất giáp có ba bậc: Trạng nguyên (Điện nguyên, Đình nguyên), Bảng nhãn, Thám hoa.

Nhị giáp: những người đỗ bậc này gọi là Tiến sĩ xuất thân

Tam giáp: những người đỗ bậc này gọi là Đồng tiến sĩ xuất thân.

- Năm 1905: chế độ khoa cử của phong kiến Trung Quốc bị bãi bỏ.

 

[1] Đặng Đức An (chủ biên), “Những mẩu chuyện lịch sử văn minh thế giới”, NXB Giáo dục, HN, 2001, tr 47.

[2] Đặng Đức An, Đặng Quang Minh, Đinh Ngọc Bảo, Dương Duy Bằng (sưu tầm và tuyển chọn), Tư liệu giảng dạy lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo dục, HN, 1983, tr 109 - 111

[3] Đặng Đức An (chủ biên), Những mẩu chuyện lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục, HN, 2001, tr 51.

[4] Đặng Đức An (chủ biên), Những mẩu chuyện lịch sử văn minh thế giới, tr 67 - 68

 

[5]  Đặng Đức An (chủ biên), Những mẩu chuyện lịch sử văn minh thế giới, tr 70 – 71.

[6] Đặng Đức An (chủ biên), Những mẩu chuyện lịch sử văn minh thế giới, tr 52 – 53.

[7] Đàm Gia Kiện (chủ biên), Lịch sử văn hoá Trung Quốc, NXB Khoa học Xã hội, HN, 1993, tr 779.

[8]  Đặng Đức Siêu, Văn hoá cổ truyền phương Đông (Trung Quốc), tr 73.

Documents:

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
    Top