LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Bắc Phi và Tây Á
A A+
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Bắc Phi và Tây Á

Khái quát: khu vực Bắc Phi và Tây Á (thường được xác định dưới tên gọi Trung Đông hoặc Trung Cận Đông theo nghĩa địa - chính trị hiện đại) là nơi xuất hiện những nền văn minh cổ xưa nhất trong lịch sử nhân loại. Ở khu vực này đã từng tồn tại những nền văn minh rực rỡ như Ai Cập, Lưỡng Hà (song không được phát triển nối tiếp) và nền văn minh Ả Rậpcó ảnh hưởng sâu sắc tới lịch sử phát triển văn hóa, văn minh nhân loại.

  1. VĂN MINH AI CẬP
    1. Điều kiện tự nhiên – dân cư và tiến trình lịch sử của Ai Cập
      1.  Điều kiện tự nhiên và dân cư
  • Điều kiện tự nhiên:

+ Ai Cập nằm ở Đông Bắc Châu Phi, là một thung lũng dài, hẹp nằm dọc theo lưu vực sông Nin. Sông Nin cực kỳ quan trọng đối với đời sống kinh tế và sinh hoạt của cư dân Ai Cập, cung cấp nước và tạo nên dải đồng bằng phù sa màu mỡ, nhất là vùng tam giác Hạ Ai Cập. Sông Nin tạo điều kiện cho người Ai Cập sớm bước vào xã hội văn minh và ảnh hưởng sâu sắc tới đời sông cư dân, nên người ta nói “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.

Sông Nin là con sông dài nhất thế giới (6700km), chảy theo hướng từ Nam (vùng rừng núi Nubi) lên phía Bắc, đổ ra biển Địa Trung Hải. Sông Nin có lượng nước phong phú và lên xuống theo mùa: mùa mưa, nước dâng ngập bờ, mùa khô nước rút, để lại hai bên triền sông dải đồng bằng phù sa màu mỡ. Do có sông Nin nên Ai Cập đã không biến thành một sa mạc khô hạn như Li Bi ở phía Tây. Người ta nói sông Nin tạo nên những thảm hoa trên cánh đồng cát rộng lớn.

+ Ai Cập tương đối cách biệt với thế giới bên ngoài, sự cách biệt này do biên giới tự nhiên tạo ra. Người Ai Cập chỉ có thể tới châu Á theo đường bộ qua eo đất hẹp Sinai (sau này kênh đào Xuyê được xây dựng qua eo đất này)

  • Đông giáp biển Đỏ, ngăn cách Ai Cập với châu Á
  • Tây là sa mạc Libi, khô nóng
  • Nam là vùng rừng núi Nubi rậm rạp
  • Bắc: biển Địa Trung Hải

Sự cách biệt với bên ngoài cũng tạo nên đặc trưng riêng của văn hoá Ai Cập (tương đối đóng kín).

+  Tài nguyên khoáng sản: Ai Cập có nhiều khoáng sản như đồng, vàng, bạc và rất nhiều mỏ đá vôi. Đó là nguyên liệu để làm công cụ sản xuất và vật liệu xây dựng. Các Kim tự tháp đều xây dựng bằng nguồn vật liệu đá sẵn có.

  • Dân cư:

+ Thời kỳ đồ đá cũ có thể thổ dân Châu Phi đã sinh sống ở đây.

+ Sau này có thể một bộ phận của tộc Hamit từ Tây Á vào hạ du sông Nin và đồng hóa với thổ dân ở đây tạo ra người Ai Cập. Nói chung về mặt nhân chủng, cư dân Ai Cập thời cổ đại khá đồng nhất và ổn định lâu dài.

+ Về sau, khi Ai Cập nằm trong lãnh thổ đế quốc Ả Rập, cư dân Ai Cập bị đồng hóa với người Ả Rập, vốn có nguồn gốc Trung Á.

  1. Các giai đoạn lịch sử của Ai Cập cổ đại

Có nhiều quan điểm khác nhau về phân chia giai đoạn lịch sử Ai Cập cổ đại. Ở đây, tạm thời phân chia lịch sử Ai Cập cổ đại thành 5 thời kỳ khác nhau với 31 vương triều, xen giữa là những giai đoạn ngắn bị ngoại tộc xâm lăng và chia cắt lãnh thổ[1].

  • Tảo Kỳ Vương quốc (3200 - 3000 TCN)

  Gồm 2 vương triều đầu tiên, thời kỳ thống nhất Thượng - Hạ Ai Cập, hình thành nhà nước Ai Cập, giai đoạn đầu của thời đại văn minh.

  • Cổ Vương Quốc (2900 - 2300 TCN)

  Thời kỳ hình thành và củng cố Nhà nước trung ương tập quyền, thời kỳ phát triển thịnh đạt đầu tiên về các mặt kinh tế phát triển thịnh đạt đầu tiên về các mặt kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự của Ai Cập.

Thời kỳ Cổ Vương quốc trải từ vương triều III – VI. Ai Cập liên tục thực hiện các cuộc tấn công vùng Đông Bắc (bán đảo Sinai) và miền Nam Ai Cập (Nubi) mở rộng lãnh thổ, cướp bóc tài sản. Các Pharaông cho xây dựng hàng loạt các Kim tự tháp (thời đại Kim tự tháp)[2] và củng cố sức mạnh của Nhà nước chuyên chế.

  • Trung vương quốc (2160 - 1710 TCN)

Được tính từ vương triều XI sau khi Mentuhôtep - lãnh tụ của thành Tebơ ở miền nam chiến thắng tập đoàn quí tộc ở Hêraclêôpôlit (miền Bắc) thống nhất trở lại Ai Cập, tiếp tục phát triển về nhiều mặt: Công cụ sản xuất bằng đồng thau phổ biến, xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn (hồ Moris ở châu Phayum), việc buôn bán với các vùng xung quanh được đẩy mạnh.

Cuối thế kỷ XVIII TCN, Ai Cập khủng hoảng (khởi nghĩa của nô lệ,dân nghèo năm 1750 TCN) và bị người Híchxốt đô hộ 150 năm (1710 - 1560 TCN)

  • Tân vương quốc (1560 - 1100 TCN)

Ai Cập đánh đuổi người người Híchxốt và phục hưng nền kinh tế nông nghiệp, thương mại của mình, đồng thời mở rộng cương vực, trở thành một đế quốc rộng lớn (phía Bắc giáp vùng Tiền Á, phía nam tận xứ Nubi - chiều dài Bắc – Nam lên tới 3200km. Nhiều quốc gia, vùng phải cống nạp (các nước vùng Tiền Á, đảo Cret…)

  • Hậu kỳ Vương quốc (gần 1100 - 525 TCN)

Đây là thời kỳ khủng hoảng - suy vong của Ai Cập cổ đại (bắt đầu từ vương triều XXI). Ai Cập liên tục bị ngoại tộc xâm lấn và thống trị (người Libi, Nubi, Atxiri, Ba Tư rồi Makedonia). Nền văn hóa Ai Cập có nhiều biến đổi và dần bị Hy Lạp hóa.

Một vài điểm lưu ý về lịch sử và văn hóa Ai Cập :

  • Ai Cập là nơi ra đời xã hội có giai cấp và nhà nước sớm nhất trong lịch sử nhân loại, là nền văn minh đầu tiên của loài người do những diều kiện đặc thù về tự nhiên tạo nên.
  • Lịch sử Ai Cập cổ đại kéo dài hàng mấy ngàn năm với nhiều vương triều nối tiếp nhau. Nhìn chung lịch sử và văn hóa Ai Cập có tính đóng kín tương đối.
  • Ai Cập cổ đại tiêu biểu cho những nhà nước cổ đại đầu tiên ở phương Đông: kinh tế nông nghiệp tưới tiêu là chính; chế độ xã hội nô lệ gia trưởng ; nền quân chủ chuyên chế sơ khai.
  • Nền văn hóa – văn minh Ai Cập cổ đại không tiếp tục phát triển sau thời cổ đại, bị ngắt quãng và không có ảnh hưởng sâu sắc đối với những thời kỳ lịch sử sau này.
    1. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Ai Cập

SV chuẩn bị bài, tập trung 2 vấn đề:

  • Những thành tựu quan trọng nhất của văn minh Ai Cập là gì?
  • Những điểm độc đáo về mặt kiến trúc, tín ngưỡng của Kim tự tháp Ai Cập ?
    1. Chữ viết và văn học
  • Ra đời sớm, ngay từ khi xã hội có giai cấp bắt đầu hình thành.
  • Ban đầu chữ Ai Cập là chữ tượng hình : biểu thị một vật gì thì vẽ bằng hình ấy. Sau đó khi muốn thể hiện những khái niệm trừu tượng thì phải dùng phương pháp mượn ý : muốn viết chữ  khát thì vẽ con bò đững cạnh dòng nước ; viết chữ chính nghĩa thì vẽ lông đà điểu vì lông đà điểu dài gần bằng nhau (công bằng, đúng đắn).
  • Sau đó, xuất hiện những hình vẽ biểu thị âm tiết. Những hình vẽ này vốn biểu thị một từ những đồng âm với với âm tiết mà người ta muốn sử dụng. Ví dụ : con mắt  tiếng Ai Cập là ar nên hình con mắt biểu thị âm ar (thể hiện từ có nghĩa khác, không phải con mắt nữa). Dần dần những chữ chỉ âm tiết biến thành chữ cái. Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại có khoảng 1000 chữ, trong đó có 24 chữ cái. Về bản chất chữ Ai Cập là chữ tượng hình, song có nhiều cách thể hiện (biểu thị hình ảnh cụ thể, âm tiết và chữ cái).
  • Chất liệu để viết : đá, gỗ, gốm, vải, da…song phổ biến nhất là giấy papyrus, loại giấy sớm nhất thế giới. Người ta lấy thân cây papyrus, một loại cây giống cỏ nước nhưng cao, thân có tiết diện tam giác, chẻ thành nhiều thanh mỏng và đan lại, ròi ép mỏng tạo thành giấy. Hiện nay người ta vẫn lưu giữ được một vài cuộn giấy từ thời cổ đại.
    1. Đời sống tín ngưỡng – tôn giáo
  • Người Ai Cập có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo rất phong phú. Họ thờ nhiều vị thần khác nhau, như các thần tự nhiên (sấm, chớp, mây, mặt trời, mưa, gió…) và các súc vật (đặc biệt là bò). Người Ai cập cũng thờ cúng những con vật tưởng tượng như phượng hoàng hay nhân sư.
  • Về sau, cùng với sự hình thành nhà nước trung ương tập quyền, thần Mặt Trời trở thành vị thần quan trọng nhất. Nơi thờ thần Mặt Trời đầu tiên là Iunu mà người Ai Cập gọi là Heliopolis, nghĩa là thành phố của thần Mặt Trời (Trong thần thoại Hy Lạp, Helios chính là thần Mặt Trời). Đến thời Trung vương quốc, thành Tépbơ trở thành kinh đô của cả nước nên thần Mặt Trời Amôn ở đây trở thành vị thần cao nhất của Ai cập.

Đến thời Tân vương quốc, vua Ichnaton đã tiến hành cải cách tôn giáo, chỉ tôn thờ vị thần duy nhất là thần Mặt Trời Aton. Tuy vậy việc này đã thất bại và Ai Cập tiếp tục thờ cúng nhiều vị thần khác nhau.

  • Người Ai Cập cổ đại coi trọng việc thờ người chết, liên quan tới quan niệm của họ về linh hồn.

Người Ai Cập cho rằng, linh hồn (Can) nhập vào thể xác khi con người ra đời và rời khỏi khi con người chết đi. Nhưng nếu giữ được thể xác nguyên vẹn, một thời điểm nào đó linh hồn sẽ quay về nhập vào thể xác và con người sẽ sống lại. Chính vì vậy họ đã ướp xác người chết. Đối với các Pharaông, người ta xây dựng những kim tự tháp khổng lồ (thời Cổ vương quốc) để gìn giữ xác ướp.

  • Đối với người Ai Cập, Pharaông là một biểu tượng quyền lực tối cao, là hiện thân của thánh thần. Họ tôn sùng Pharaông như thần linh (được hôn ngón chân cái của Pharaông chính là một vinh dự lớn). Trong lịch sử Ai Cập, từng diễn ra những cuộc cải cách tôn giáo, mục đích là kết hợp giữa sức mạnh vương quyền và thần quyền. Nổi bật là cuộc cải cách của Ichnaton, tôn thờ duy nhất thần Mặt trời Atôn và nhà vua trở thành hiện thân của thần Mặt Trời.
    1. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc
  • Nghệ thuật kiến trúc :

(Yêu cầu SV chuẩn bị ở nhà với yêu cầu làm rõ những đặc điểm kiến trúc, tín ngưỡng nổi bật của các kim tự tháp).

+ Vật liệu: đá vôi là chủ yếu, cùng với một vài loại đá khác và gỗ.

+ Những công trình nổi bật : Kim tự tháp, đền miếu và cung điện.

Thời gian và địa điểm : Xây dựng thời các vương triều thứ III và thứ IV, tức thời Cổ vương quốc, tại vùng sa mạc Tây Nam Cairo (Khu vực được gọi là Thung lũng các vị vua, tức vùng Ghiza). Sau thời kỳ này, người ta không xây dựng kim tự tháp nữa mà xây dựng các hầm mộ ở vách núi để bảo quản thi hài Pharaông.

Mục đích : Liên quan đến tín ngưỡng về linh hồn người chết sẽ quay trở lại nhập vào thể xác nếu có thể ướp được xác. Người ta xây dựng kim tự tháp để cất giữ và thờ cúng xác ướp Pharaông. Kim tự tháp còn là biểu tượng cho uy quyền và sự giàu có của Pharaông.

Kiến trúc : Kim tự tháp được xây dựng dưới thời vua Kê ốp là kim tự tháp lớn nhất và tiêu biểu nhất về kiến trúc kim tự tháp.

Kim tự tháp Kê-ốp (tên Ai Cập) là Hufu cao 146,5m, có hình tháp chóp, đáy là một hình vuông mỗi cạnh dài 230m, bốn mặt là những hình tam giác theo 4 hướng đông, tây, nam, bắc. Vật liệu xây dựng là những tảng đá vôi lớn, mài nhẵn và xếp khít với nhau chứ không dùng vữa. Ở độ cao 13m so với mặt đất có cửa thông với hầm mộ trong lòng kim tự tháp (có 2 hầm mộ, 1 ở giữa kim tự tháp và một ở sâu dưới nòng đất 30m).

Người ta ước tính rằng muốn xây dựng được kim tự tháp Kêốp cần khoảng 20 năm và hàng trăm nghìn nhân công thay phiên nhau xây dựng. Cũng giống như các kim tự tháp khác, hầm mộ trong kim tự tháp Kêốp đã không còn xác ướp và các báu vật song các kim tự tháp vẫn tồn tại qua hàng ngàn năm. Người Ai cập có câu : « Tất cả đều sợ thời gian, những thời gian lại sợ kim tự tháp ».

Nét độc đáo ở kiến trúc kim tự tháp: nghệ thuật tạc và mài đá, ghép khối lượng đá khổng lồ mà không sử dụng vữa, đạt độ chính xác cao, tạo thành những khối kiến trúc đồ sộ và rất vững chắc. Mặt khác, với những công cụ thô sơ thời kỳ đó, việc di chuyển và ghép những phiến đá lớn trên những độ cao như vậy được thực hiện như thế nào vẫn còn là điều bí ẩn. Có lẽ người Ai Cập đã biết sử dụng con lăn gỗ tròn và ròng rọc, cùng với việc đắp những gò đất lớn để xây dựng kim tự tháp. Tuy vậy, chi tiết cụ thể vẫn chưa được khẳng định chắc chắn.

  • Điêu khắc : Thành tự tập trung ở hai mảng tượng và phù điêu. Từ thời Cổ vương quốc về sau, vua Ai Cập thường sai tạc tượng của mình và những người trong hoàng tộc, tạc trên đá, gỗ hoặc đúc bằng đồng.

+ Tượng nhân sư Xphanh (Sphin) : đây là công trình điêu khắc tiêu biểu của Ai Cập. Xphanh là nhân sư (đầu người, mình sư tử), thường đặt trước cổng đền miếu. Lớn nhất và tiêu biểu nhất là tượng Xphanh đặt ở Kim tự tháp Kê – phren ở Ghiza. Tượng này dài 55m, cao 20m, riêng tai dài 2m, thể hiện khuôn mặt của vua Kê-phren (thế kỷ XXIX TCN), ca ngợi trí tuệ và sức mạnh của nhà vua.

+Viên thư lại [3]: từ thời vương triều IV, tượng các viên thư lại đã được biết đến, thể hiện chủ thể của mình như là những người học rộng biết nhiều chứ không đơn thuần chỉ là viên thư lại. Việc biết đọc, biết viết là con đường leo lên những trị trí cao cấp trong bộ máy nhà nước, nên nhiều nhân vật quyền quý chọn thể hiện mình trên các tác phẩm điêu khắc là những viên thư lại (hoàng tử, tu sĩ, quan tòa…).

Tiêu biểu trong các bức tượng đó là bức tượng viên thư lại khuyết danh tạc vào thời kỳ vương triều thứ IV, khoảng 2375 TCN: viên thư lại ngồi xếp bằng, hai tay đặt trên tờ giấy papyrus đặt trên đùi mình, tay phải trong tư thế cầm cây bút bằng sậy. Tư thế tượng đơn giản, nhưng thể hiện sự tự tin. Mắt tượng được nạm đá, màu sắc tượng hầu như còn được giữ nguyên.

+Hoàng hậu Nêphéctiti : Tượng bán hoàng hậu của vua Ichnaton, vương triều thứ XVIII, thể hiện một phụ nữ tuyệt đẹp và có uy quyền, có ảnh hưởng lớn đối với cuộc cải cách tôn giáo của nhà vua. Tượng được tạc bằng đá thạch anh màu nâu nhạt, ghép một vài loại đá khác. Đây là bức tượng được đánh giá đẹp nhất trong nghệ thuật tạc tượng của Ai Cập cổ đại[4].

+ Mặt nạ bằng vàng của Tutankhamôn : Các vị Pharaông khi ướp xác thường kèm theo chiếc mặt nạ tạc theo đúng chân dung. Nổi tiếng nhất là mặt nạ bằng vàng của Tutankhamôn, vị Pharaông chết trẻ và kho báu trong hầm mộ hầu như còn nguyên vẹn khi khám phá.

Chiếc mặt nạ bằng vàng khối nặng tới 11kg và được cẩn thủy tinh màu với một số loại đá quý, trùm lên đầu và vai nhà vua. Khăn trùm đầu được trang trí bằng thủy tinh màu xanh dương trong khi chân mày và đường viền mắt nổi bật được cẩn đá xanh dương. Tròng mắt được làm từ đá vỏ chai và thạch anh. Nó thể hiện chân thực chân dung nhà vua, để linh hồn có thể nhận diện được theo quan niệm thời đó[5].

  1. Thành tựu về khoa học tự nhiên
  • Toán học: Xuất phát từ nhu cầu đo lại ruộng đất do nước sông Nin dâng xóa rang giới và tính toán vật liệu khi xây dựng nên người Ai Cập có nhiều hiểu biết đáng chú ý về toán học.

Họ dùng phép đếm thập vị tiến (lấy 10 làm cơ sở), biết dùng phép cộng trừ những chưa biết nhân chia. Họ biết một số kiến thức đại số sơ giản

Về hình học, người Ai Cập tính được số Pi=3,16, chưa hẳn chính xác với số thực 3,141529…), tính được diện tích tam giác, hình cầu, thể tích hình tháp đáy vuông…

  • Thiên văn học:

+ Người Ai Cập đã vẽ được 12 cung hoàng đạo và biết được một số hành tinh như sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ.

+ Họ chế tạo được đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước để đo thời gian song có nhiều nhược điểm (đồng hồ mặt trời chỉ dùng được vào ban ngày và khi có nắng. Đồng hồ nước thì không được chính xác lắm vì nước bay hơi)

+ Đặt ra lịch dựa vào kết quả quan sát bầu trời và quy luật dâng, hạ nước của sông Nin. Họ đặt ra lịch có 365 ngày, mỗi tháng có 3 ngày và 5 ngày còn thừa để vào cuối năm. Năm mới bắt đầu khi nước sông Nin dâng (tháng 7 dương lịch) và chia ra làm 3 mùa, mỗi mùa 4 tháng : mùa Nước dâng, mùa Ngũ cốc và mùa Thu hoạch. Lịch này tương đối chính xác (thiếu ¼ ngày) song họ chưa biết đặt năm nhuận.

  • Y học :

Người Ai Cập giỏi cả nội khoa và ngoại khoa do họ có tục ướp xác. Khi ướp xác cần phải mổ lấy nội tạng và óc. Do vậy họ biết rõ về cấu tạo cơ thể và một số chức năng của các cơ quan.

Họ cho rằng nguyên nhân bệnh tật là do sự không bình thường của mạch máu chứ không phải do ma quỷ, biết được mối quan hệ giữ tim và máu…

Một số tài liệu cũng cho thấy họ đã mô tả được vài loại bệnh như đường ruột và dạ dày, bệnh đường hô hấp, ngoài da… và phương pháp chữa trị.

Nhìn chung những hiểu biết của người Ai Cập khá đơn giản và dựa nhiều vào kinh nghiệm song những hiểu biết đó chứng tỏ họ đã đạt được những thành tựu quan trọng của buổi đầu thời đại văn minh.

  1. VĂN MINH LƯỠNG HÀ
    1. Điều kiện tự nhiên – dân cư và tiến trình lịch sử của Lưỡng Hà
      1.  Điều kiện tự nhiên
  • Lưỡng Hà (Mésopotamie) nghĩa là vùng đất nằm giữa hai con sông theo cách gọi của người Hy Lạp: Medos nghĩa là ở giữa và Potamos nghĩa là sông. Đó là sông Tigơrơ (phía Đông) và Ơphơrat (phía Tây). Cả hai con sông này đều bắt nguồn từ miền rừng núi Acmênia chảy qua lãnh thổ nước Irắc ngày nay và đổ ra vịnh Pécxích. Phù sa của hai con sông này tạo nên khu vực đồng bằng phì nhiêu và dồi dào nguồn nước. Chính do đó, cũng giống như AI cập, Lưỡng Hà sớm bước vào thời đại văn minh với những công cụ thô sơ bằng đá và đồng.
  • Nằm ở vị trí trung tâm của Tây Á, Lưỡng Hà có vị trí cầu nối rất quan trọng, trên con đường qua lại giữa phương Đông và phương Tây theo cả đường bộ và đường biển (vịnh Pécxích). Do đó Lưỡng Hà có diều kiện giao lưu với các khu vực xung quanh.

Mặt khác, Lưỡng Hà lại không có biên giới tự nhiên hiểm trở che chắn như Ai Cập. Vị trí và đặc điểm địa hình đó  ảnh hưởng lớn tới lịch sử và văn hoá của vùng này. Lịch sử Lưỡng Hà là lịch sử của các cuộc chiến tranh giữa các tộc người, là lịch sử các tộc người thay nhau làm chủ nhân khu vực này,  hình thành một nền văn hoá đa dạng, mở, giao lưu văn hoá mạnh mẽ..

  1. Dân cư: phức tạp, gồm nhiều tộc người khác nhau trong tiến trình lịch sử và có sự hòa huyết.
  • Thiên niên kỷ IV TCN: người Xume từ Trung Á di cư đến miền Nam Lưỡng Hà.
  • Thiên niên kỷ III TCN người Accat thuộc tộc Xêmít đến trung lưu Lưỡng Hà, đồng hóa với người Xume ở đây.
  • Sau đó nhiều tộc người khác (Amôrit, Atxiri, Catxit…) đến Lưỡng Hà, đồng hóa với cư dân đến trước.
    1.  Các giai đoạn lịch sử của Lưỡng Hà cổ đại:
  • Những nhà nước của người Xume (TNK IV TCN ¸ TNK III TCN)

Là thời kỳ hình thành hàng loạt các quốc gia thành bang của người Xume (Lagat, Ua, Uruc, Eridu…), tức là những nhà nước lấy một thành thị làm trung tâm. Các thành bang thường xuyên xảy ra chiến tranh và sau đó thành bang Umma đã thống nhất được miền Nam Lưỡng Hà.

  • Người Accát làm chủ Lưỡng Hà (TK XXIV - XXII TCN)

Vua Sacgôn (2369 - 2314 TCN) đứng đầu thành bang Accat, thành bang của một nhánh người Xêmit, là người đã có công thống nhất khu vực Lưỡng Hà (đánh bại các quốc gia thành bang của người Xume, mở rộng biên giới của Lưỡng Hà). Đến thời cháu của Sacgôn là Naramxin (2270 - 2251 TCN) Lưỡng Hà còn khống chế cả một vùng đất rộng lớn của Tây Á. Việc đồng hóa người Xume - Accat đã diễn ra.

Đến cuối thời kỳ này, Accat khủng hoảng và bị người Guti thống trị một thời gian khá dài.

  • Sự phục hưng của người Xume (2132 - 2024 TCN)

Đây là thời kỳ người Xume giành lại quyền khống chế khu vực Lưỡng Hà, dưới quyền thống trị của thành bang Ua. Cuối thế kỷ XXI TCN, mâu thuẫn xã hội phát triển là nguyên nhân làm Lưỡng Hà suy yếu, trở thành đối tượng bị xâm lược bởi người Elam và Amôrit.

  • Thời Babilon cổ (1894 - 1595 TCN)

Đây là thời kỳ huy hoàng nhất lịch sử Lưỡng Hà - thời kỳ này gắn với vai trò của người Amorit và ông vua Hammurabi (1792 - 1750 TCN). Babilon là thành phố nằm ở trung tâm Lưỡng Hà. Từ đây, Hammurabi đã thống nhất hầu hết khu vực Lưỡng Hà.

Kinh tế phát triển (công cụ sản xuất bằng đồng thau được sử dụng phổ biến, bắt đầu xuất hiện công cụ bằng sắt). Xã hội – chính trị ổn định. Nền văn hóa có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Kể từ đây, cư dân thống nhất gọi là người Babilon

Sau khi Hamurabi chết thì Babilon cổ bị suy yếu và trong khoảng 1000 năm tình hình khu vực rối ren, chia rẽ, phân tán và thường xuyên bị ngoại tộc xâm lấn (năm: 1518 TCN người Catxit; năm: 1165 TCN người Atxiri).

  • Thời kỳ Tân Babilon và Ba Tư (626 - 328 TCN)

Tân Babilon là giai đoạn phát triển cuối cùng của Lưỡng Hà, thời kỳ phục hồi lại vương quốc Babilon cổ. Thời kỳ này, Babilon do người Canđê làm chủ.

Nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu của Lưỡng Hà được xây dựng thời gian thời kỳ này (thành Babilon, vườn treo Babilon…)

Năm 538 TCN, Tân Babilon bị Ba Tư tấn công và bị tiêu diệt, Tân Babilon diệt vong. Những đến năm 328, Ba Tư lại bị Mekedonia xâm lược, khu vực này chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp.

  1. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Lưỡng Hà
  • Chữ viết và văn học

+ Chữ tiết hình: Khoảng TNK IV TCN, gần đồng thời với Ai Cập, người Xume ở Lưỡng Hà cũng sáng tạo ra chữ viết của mình. Các tộc người sau đó đến làm chủ Lưỡng Hà như Accat, Hatti, Atxiri, Ba Tư đã tiếp thu và phát triển chữ viết của người Xume.

Chữ viết ở khu vực Lưỡng Hà được gọi là chữ tiết hình hay chữ hình đinh, xuất phát từ hình dáng của chữ viết này (góc nhọn), do việc viết bằng que nhọn trên các phiến đất sét ướt rồi phơi khô. Chữ tiết hình ban đầu cũng chủ yếu là chữ tượng hình, về sau bổ sung thêm chữ biểu ý và mượn âm thanh. Tổng số chữ tiết hình khoảng 600 chữ, những thường dùng khoảng 300 chữ và mỗi chữ có vài nghĩa.

Cư dân Lưỡng Hà sử dụng đất sét, một vật liệu rất sẵn có để viết chữ nên đó bằng que nhọn. Do vậy chữ viết thường có hình góc nhọn. Hàng trăm ngàn tấm đất sét có chữ viết đã được tìm thấy, cho biết nhiều điều về Lưỡng Hà cổ đại.

+ Văn học: Văn học Lưỡng Hà gồm 2 bộ phận chủ yếu là văn học dân gian và sử thi (cũng gọi là anh hùng ca).

Văn học dân gian gồm có cách ngôn, ca dao, ngụ ngôn…, phản ánh cuộc sống lao động của nhân dân và cách cư xử ở đời, thường được truyền miệng nên ngày nay người ta biết không được nhiều.

Sử thi ra đời từ thời Xume, đến thời Babilon chiếm một vị trí quan trọng, chịu ảnh hưởng mạnh của tôn giáo. Chủ đề thường ngợi ca các vị thần. Tiêu biểu là “Khai thiên lập địa”, “Nạn hồng thủy”, “Gingamét”. Những truyện này ảnh hưởng đến Tây Á rất nhiều, đều xuất hiện trong Kinh Thánh (Kinh Cựu Ước) của Đạo Do Thái.

  • Tôn giáo: Cư dân Lưỡng Hà thờ nhiều vị thần khác nhau như thần tự nhiên, thần động vật, thực vật, linh hồn người chết. Mỗi thành bang lại thờ một vị thần. Chính vì vậy hệ thống thần linh Lưỡng Hà rất đông đảo và lại phức tạp trong hệ thống thứ bậc.

Các vị thần tự nhiên chủ yếu bao gồm: Thần Anu là thần trời, dần dần được coi là vua và là cha các thần; Thần Enlin là thần đất, chúa tể trời đất; Thần Ea là thần nước, con trưởng Anu, cha của thần Mácđúc…Thần Mácđúc trở thành chúa tể của các thần từ thời Babilon (Lưỡng Hà thống nhất).

Về linh hồn, người Lưỡng Hà cho rằng linh hồn người chết cũng có cuộc sống như ở trần thế, nên họ thường chon theo nô lệ và các đô tùy táng với người giàu và xây các lăng mộ lớn.

Người ta cũng thờ các dã thú.

Tầng lớp thờ cũng cũng được hình thành.

  • Nghệ thuật kiến trúc:

Kiến trúc là một thành tựu tiêu biểu của văn minh Lưỡng Hà, chủ yếu là các công trình tháp, đền miếu, cung điện, thành quách.

+ Vật liệu: do thiếu gỗ, đá nên các công trình kiến trúc Lưỡng Hà đều xây dựng bằng gạch.

+ Những công trình tiêu biểu:

GV giới thiệu và yêu cầu SV tham khảo thêm trong tài liệu

Tháp đền Ua: Xây dựng vào khoảng thế kỷ XXII TCN, một ngôi tháp hình chữ nhật, 4 tầng, bên ngoài xây gạch, trong là lõi đất. Cả tháp có bậc cấp ở ngoài để đi lên đỉnh. Ngọn tháp này là nơi thờ cúng thần và quan sát thiên văn.

Tầng 1: màu đen, đại biểu cho thế giới dưới đất.

Tầng 2: màu đỏ, đại biểu cho thế giới con người.

Tầng 3: màu xanh, đại biểu cho thiên đường.

Tầng 4: màu trắng, đại biểu cho mặt trời, đồng thời là một cái tháp nhỏ.

Thành Tân Babilon: Nằm ở thủ đô Bát-đa của Irắc ngày nay. Đây là một tòa thành gạch lớn gồm 3 lớp dày từ 3,3 đến 7,8m. Giữa các lớp có hào sâu và tường đất. Toàn bộ tòa thành màu vàng, chu vi 13,2km với hơn 300 tháp canh. Nó còn có một công trình phòng ngự bằng nước phức tạp, có thể làm ngập xung quanh để phòng thủ.

Vườn treo Babilon: Công trình độc đáo của kiến trúc Babilon.

Toàn bộ vườn treo thực chất là một vườn hoa tạo dựng trên một cái đài cao 25m, gồm 4 lớp (đá, gạch, chì và đât). Thực tế thì công trình này không còn tồn tại và chỉ được nhắc đến trong các tài liệu cổ và một vài dấu tích khảo cổ học. Vì vậy những bí ẩn về nó còn rất nhiều như nghệ thuật dẫn nước lên cao như thế nào, vị trí chính xác của nó ra sao…

  • Luật pháp:

Lưỡng Hà là nơi xuất hiện những bộ luật sớm nhất thế giới. Trong đó bộ luật Hammurabi được soạn dưới thời Hammurabi (1792 – 1750TCN) được xem là bộ luật thành văn sớm nhất thế giới hầu như còn nguyên vẹn.

Bộ luật gồm 3 phần: Mở đầu; các điều luật và kết luận.

Phần Mở đầu nói về sứ mạng thiêng liêng, uy quyền của Hammurabi và mục đích ban hành bộ luật.

Luật Hammurabi gồm 282 điều, đề cập tới rất nhiều vấn đề: kiện tụng, hôn nhân, gia đình, sở hữu tài sản, quyền lợi và nghĩa vụ của binh lính, chế độ ruộng đất, tô thuế, nô lệ…(GV sử dụng một số điều luật để minh họa nội dung).

Phần kết luận nhắc lại uy quyền, công đức của vua và tính hiệu lực của bộ luật.

  • Khoa học tự nhiên (Đọc giáo trình)
  1. VĂN MINH Ả RẬP

Tài liệu tham khảo

- Nguyễn Thị Thư, Nguyễn Hồng Bích, Nguyễn Văn Sơn, Lịch sử Trung Cận Đông, NXB Giáo dục (tái bản lần thứ ba), 2007.

- Bernard Lewis, Lịch sử Trung Đông 2000 năm trở lại đây, người dịch: Nguyễn Thọ Nhân, NXB Tri Thức, HN, 2008.

- Will Durant, Lịch sử văn minh Ảrập, người dịch: Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn hóa Thông tin, HN, 2006.

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN MINH Ả RẬP

1. Tình hình bán đảo Ả Rậptrước khi hình thành nhà nước

- Vị trí địa lý: Ảrập là bán đảo lớn nhất thế giới ở Tây Nam châu Á (diện tích lớn hơn 1/4 diện tích châu Âu), nằm giữa Địa Trung Hải, Hồng Hải và Ấn Độ Dương. Bán đảo Ả Rậplà nơi tiếp giáp giữa ba châu lục: châu Á, châu Âu, châu Phi, do đó có nhiều đường thương mại quốc tế đi qua (Hai tuyến thương mại Đông – Tây thời cổ là Con đường tơ lụa Con đường tơ lụa trên biển đều đi qua đây).

- Điều kiện tự nhiên:

+ Đây là một cao nguyên, phần lớn đất đai là sa mạc khô khan, hoang vắng, rất hiếm nước, thỉnh thoảng có một vài ốc đảo. Các đoàn thương nhân cùng các đoàn lạc đà chở hàng hoá từ châu Âu sang châu Á và ngược lại thường hay dừng chân tại các ốc đảo này. Do đó, ốc đảo thường là nơi tranh chấp, giành giật nguồn nước và vùng sinh sống thuận lợi giữa các bộ lạc, các đoàn thương nhân…

+ Khí hậu rất khắc nghiệt, chênh lệch nhiệt độ lớn giữa ngày và đêm. Ban ngày, nhiệt độ có thể lên đến 450C, ban đêm, nhiệt độ lại hạ xuống thấp dưới 00C. (điều này góp phần giải thích tính cách con người ở nơi đây: chịu đựng được điều kiện khắc nghiệt, thô bạo, quyết liệt).

+ Bán đảo Ảrập nằm trên con đường buôn bán giữa Tây Á và Bắc Phi, giữa phương Đông và phương Tây, do vậy, nơi đây sớm hình thành một số thành thị là trung tâm thương mại, văn hoá của bán đảo, tiêu biểu như Mécca và Yatơríp.

+ Do điều kiện khí hậu thuận lợi hơn, nên ở vùng phía Nam của bán đảo có một số quốc gia hình thành từ rất sớm (khoảng thế kỷ X đến thế kỷ VI TCN). Tuy nhiên, giữa các quốc gia thường xuyên xảy ra tranh chấp, xung đột. Trong khi đó, ở vùng phía Bắc, phần lớn dân cư vẫn sống trong thời kỳ thị tộc, bộ lạc.

- Điều kiện xã hội:

+ Người Ảrập thuộc chủng tộc Xêmít (đặc điểm: nước da ngăm nâu, mắt nâu, râu tóc rậm), ở miền Nam có nhóm cư dân thuộc nhóm người Yêmênites, miền Bắc: Nizanites. Nhóm cư dân miền Nam sống định cư từ sớm, kiến tạo nên những quốc gia văn minh từ những thế kỷ trước công nguyên, thường xuyên đấu tranh với nhau trong một thời gian dài, đến thế kỷ IV sau công nguyên mới thống nhất được một phần. Nhóm cư dân miền Bắc sống du mục, lang thang. Nhìn chung, đến thế kỷ VII, cư dân Ả Rậpvẫn sống trong giai đoạn mạt kỳ của chế độ công xã nguyên thuỷ. Tuy nhiên, trong xã hội bắt đầu xuất hiện yếu tố tư hữu tài sản, có sự phân hoá giai cấp, xuất hiện những quý tộc chủ nô, thương nhân giàu có, nô lệ. Quan hệ quý tộc chủ nô – nô lệ dần dần thay thế quan hệ huyết tộc trong chế độ thị tộc bộ lạc trước đây.

+ Trong xã hội người Ảrập tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu: chế độ đa thê, địa vị người phụ nữ rất thấp kém (bị coi là vật phụ thuộc của người đàn ông, khi chán, người đàn ông có thể nhượng người phụ nữ của mình cho một người đàn ông khác; trong chiến tranh, người phụ nữ bị coi là chiến lợi phẩm), một số bộ lạc có tục chôn sống trẻ gái sơ sinh (vì người ta quan niệm sự có mặt của con gái là điềm báo trước sự nghèo khó cho bộ lạc), ngoài ra còn có tục chọc mù mắt một số con vật để tránh vía dữ, tục cột lạc đà bên cạnh người chết (vì quan niệm có hai thế giới tồn tại giống nhau, nên người chết cũng cần mang theo lạc đà sang thế giới bên kia)…Một số tập tục vẫn được duy trì sau khi đạo Islam ra đời.

- Tín ngưỡng:

+ Trước khi đạo Islam ra đời, người Ảrập theo tín ngưỡng đa thần. Mỗi thị tộc, bộ lạc thờ một vị thần khác nhau: Mặt Trăng, Mặt Trời, các vì sao, thờ hòn đá trên sa mạc, cây cối trên ốc đảo,... Đền Caaba (ở Mécca) là nơi thờ cúng chung của các bộ lạc, trong đó thờ nhiều tượng thần của các bộ lạc (có khoảng 360 tượng thần). Đặc biệt, một viên đá đen dài khoảng 20 cm được coi là biểu tượng sùng bái chung cho các bộ lạc.

+ Trước khi Islam giáo ra đời, đạo Do Thái, đạo Kitô đã từng được truyền bá đến Ảrập nhưng chưa gây được ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần, tâm linh của cư dân Ảrập.

2. Quá trình hình thành nhà nước Ảrập - Đế quốc Ảrập bành trướng và tan rã

2.1. Quá trình hình thành nhà nước Ảrập

* Hoàn cảnh lịch sử: (Yêu cầu lịch sử đặt ra cho bán đảo Ảrập vào thế kỷ VII)

- Tình hình thế giới: Vào thế kỷ VII, hầu hết các quốc gia trên thế giới đang trong giai đoạn xác lập, củng cố chế độ phong kiến (Tây Âu: chế độ phong kiến xác lập từ thế kỷ V đến thế kỷ IX, củng cố từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI; Trung Quốc thế kỷ VII đang trong thời kỳ thịnh vượng của chế độ phong kiến dưới thời Đường…). Trong khi đó, Ả Rậpđang trong giai đoạn tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc. Trong hoàn cảnh ấy, Ả Rậpkhông thể có những bước đi tuần tự tuân theo quy luật hình thái kinh tế xã hội → buộc Ả Rậpphải bỏ qua chế độ chiếm nô, chuyển thẳng lên chế độ phong kiến.

- Tình hình bán đảo:

+ Đến thế kỷ VII, con đường buôn bán giữa phương Đông với phương Tây chuyển sang khu vực vịnh Ba Tư thuộc quyền kiểm soát của đế quốc Ba Tư. Việc mất quyền kiểm soát đối với con đường buôn bán này đã gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế bán đảo Ảrập, các thành phố lớn trở nên tiêu điều, hoang tàn, không còn tấp nập như trước. Các thương nhân quý tộc Ả Rậpchuyển sang cho vay lấy lãi, bóc lột lao động của dân nghèo. Mâu thuẫn trong nội bộ thị tộc, bộ lạc gay gắt hơn.

+ Ở bên ngoài, đế quốc Ả Rậpcó nguy cơ bị xâm lấn bởi đế quốc Ba Tư ở phía Đông, Bidăngtium ở phía Tây.

=> Hoàn cảnh lịch sử đặt ra một yêu cầu: cần có một chính quyền tập trung vững mạnh chấm dứt các cuộc xung đột chiến tranh giữa các bộ lạc, thống nhất các bộ lạc, duy trì quyền thống trị của quý tộc, thương nhân, khôi phục lại con đường buôn bán Đông Tây, đẩy lùi các nguy cơ bị xâm lược, nếu có điều kiện thì mở rộng chiến tranh xâm lược sang các vùng lân cận. Tín ngưỡng đa thần là một trở ngại lớn nhất cho sự thống nhất các bộ lạc.

→ Chính trong hoàn cảnh và yêu cầu đó, đạo Islam đã ra đời và trở thành một vũ khí tư tưởng thích hợp cho sự thống nhất bán đảo Ả rập. Quá trình hình thành nhà nước Ả Rậpgắn liền với quá trình hình thành, truyền bá đạo Islam và sự nghiệp của Môhamét.

* Quá trình thống nhất bán đảo Ả rập

- Năm 610, Môhamét bắt đầu truyền bá đạo Islam ở Mécca, nhưng bị quý tộc phản đối kịch liệt. Năm 622, Môhamét cùng tín đồ của mình phải chạy lên thành phố Yatơríp ở phía Bắc (cách Mécca 400 km). Năm 622 được coi là năm thứ nhất của kỷ nguyên Hồi giáo. Môhamét tự xưng là tiên tri, nên từ đó thành phố Yatơríp đổi tên thành Mêđina nghĩa là “thành phố của Tiên tri”

- Năm 630, Môhamét đem 10.000 người chiếm Mécca, thành lập nhà nước Ả rập. Mécca trở thành thánh địa chủ yếu của Hồi giáo, đền Caaba trở thành thánh thất.

2.2. Đế quốc Ả Rập bành trướng và tan rã

- Giai đoạn 610 – 632: là thời kỳ hình thành nhà nước Ả rập, đạo Islam ra đời và truyền bá trên phạm vi bán đảo.

- Giai đoạn 632 – 661: thời kỳ này được gọi là thời kỳ bốn Calipha (Khalíp: phó Tiên tri) tuyển cử và cầm quyền. Họ do quý tộc bầu ra, đứng đầu nhà nước, lần lượt là: Abukéc, Ôma, Ôtman, Ali thay nhau nắm quyền. Trong thời kỳ này, lãnh thổ Ả Rậpmở rộng từ Ai Cập đến Ba Tư, chiếm phần lớn lãnh thổ của đế quốc Bidăngtium, chiếm khu vực Lưỡng Hà, Ácmêni, Iran.

- Giai đoạn 661 – 750: vương triều Omayát được thành lập, là vương triều đầu tiên ở Ả rập, chế độ chuyên chế tập trung được xây dựng ngày càng mạnh. Các Calipha trở thành hoàng đế nắm mọi quyền hành về tôn giáo, chính trị, quân sự, thực hiện chế độ cha truyền con nối. Kinh đô chuyển từ En Mêđina về Đamát ở Xiri.

Đây là thời kỳ lãnh thổ đế quốc Ả Rậpđược mở rộng nhất, phía Tây tới Bắc Phi, Tây Ban Nha, phía Đông tới Tuốckextan ở Tây Bắc Ấn Độ. Đến giữa thế kỷ VIII, Ả Rậptrở thành một đế quốc rộng lớn.

- Giai đoạn 750 – 1258: thời kỳ thống trị của vương triều Abatxít. Kinh đô chuyển về Bátđa (thuộc Irắc ngày nay). Đây cũng là thời kỳ đế quốc Ả Rậptan rã. Cuối vương triều Abatxít, đế quốc Ả Rậpchia làm 3 phần:

+ Đế quốc Ả Rậpphương Tây: gồm Tây Ban Nha và một phần Bắc Phi (kinh đô Coócđôba)

+ Đế quốc Ả Rậpphương Nam: gồm Ai Cập và một số vùng xung quanh (thủ đô Cairo)

+ Đế quốc Ả Rậpphương Đông: trung tâm bán đảo Ả Rập(kinh đô Bátđa)

Năm 1258, kinh đô Bátđa bị quân Mông Cổ chiếm. Đế quốc Ả Rậpdiệt vong.

II. ISLAM GIÁO

“Islam” có nghĩa là “thuận tòng”, “tuân theo”, tức là thuận tòng thánh Allah tối thượng và duy nhất, tuân theo vị sứ giả của Thánh Allah: Môhamét. Islam giáo (trước đây quen gọi là Hồi giáo) do Môhamét sáng lập.

* Môhamét (Muhammed) sinh năm 571 tại Mécca. Gia đình ông thuộc một thị tộc nghèo của bộ lạc Koraich. Ông mồ côi cha từ trong bụng mẹ và mồ côi mẹ khi mới 6 tuổi. Sau khi ông nội qua đời, ông được người bác nuôi nấng. Thời niên thiếu của ông được người ta biết rất ít, chỉ biết ông chăn lạc đà, sau đó làm nghề dẫn đường cho các thương nhân qua sa mạc. Có lẽ chính nghề dẫn đường nay đây mai đó đã cung cấp cho ông nhiều tri thức, đặc biệt là những hiểu biết về đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa mà sau này ông đưa vào tôn giáo của mình.

Tương truyền, Môhamét là người tầm thước, da mặt hồng hào, mắt đen, tóc đẹp, râu rậm, ông không biết đọc, biết viết nhưng rất thông minh, cương nghị và có tài hùng biện. Ông còn là người trung thực và tình cảm. Nhờ vậy mà ông chiếm được cảm tình và lòng tin của Khadija - một goá phụ thông minh và giàu có, hơn ông 14 tuổi. Ông làm thuê cho bà và năm 25 tuổi, ông đã kết hôn với bà. Từ đó, ông có cuộc sống giàu sang, hạnh phúc và suốt đời ông không quên ơn Khadija, mặc dù sau này ông có nhiều vợ.

Vào khoảng năm 40 tuổi, Môhamét ngày càng trở nên trầm tư, sống khép kín. Ông thường giấu mình trong một cái hang ở núi Hira gần Mécca để nhịn ăn và tập trầm tư. Vào một đêm năm 610, thiên thần Gabriel đã nói cho ông biết rằng ông là “sứ giả của Thánh Allah” và truyền cho ông những lời khải thị của Thánh. Từ đó, Môhamét công khai tự xưng là Nhà tiên tri của Thánh Allah – thánh của người Ả rập. Những bài thuyết pháp của ông đặt cơ sở cho sự ra đời của tôn giáo mới – Islam giáo hay Hồi giáo (Islam theo tiếng Ả Rậpcó nghĩa là “phục tùng”, giáo điều căn bản của tôn giáo này quy định tín đồ phải phục tùng vị Thánh tối cao và duy nhất là Thánh Allah. Còn Hồi giáo là tên quen dùng ở nước ta vì người xưa tưởng rằng đạo này là đạo của người Hồi Hột ở Trung Quốc.) [6]

* Quá trình truyền bá đạo Islam ở bán đảo Ả rập

- Từ năm 610, Môhamét bắt đầu truyền bá đạo Islam. Khi truyền đạo, Môhamét còn lên án giới chủ nô và giới cho vay lãi ở Mécca, giúp đỡ về vật chất cho người nghèo, trẻ mồ côi, goá phụ…Ông tuyên bố: việc cho chuộc hay trả tự do cho nô lệ là việc thiện. Thị dân nghèo và nô lệ ở Mécca tin và theo Môhamét. GIới quý tộc và thương nhân Mécca thấy Môhamét gây được ảnh hưởng trong dân chúng đã cản trở ông truyền đạo. Thậm chí, họ còn buộc Môhamét và các đệ tử của ông phải rời Mécca. Năm 622, Môhamét cùng các đệ tử đến thành Yatơríp để tiếp tục truyền đạo. (Yatơríp sau này trở thành thánh địa thứ hai, được đổi thành Medina al-Nabii, nghĩa là thành phố của Nhà tiên tri, thường gọi tắt là Mêđina. Năm 622 trở thành năm đầu của lịch Islam giáo)

- Tình hình ở Yatơríp lúc đó rất thuận lợi cho việc phát triển ảnh hưởng chính trị của Môhamét. Yatơríp là một vùng nông nghiệp phát triển và là trung tâm thủ công nghiệp, nhưng ở đó lại đang diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai bộ lạc để giành địa vị thống trị. Người của cả hai bên đã nhờ Môhamét, nhà tiên tri của Thánh Allah, giải quyết tranh chấp. Nhờ tài trí của mình, ông nhanh chóng chiếm được cảm tình của dân chúng và trở thành người đứng đầu thành phố.

- Sau khi củng cố địa vị ở Mêđina, Môhamét lập đội quân vũ trang để đấu tranh với người Mécca. Các binh sĩ của ông tấn công các thương đội của người Mécca và cướp hàng hoá. Người Mécca liên kết với các bộ lạc khác bao vây Mêđina nhưng không đạt kết quả. Thanh thế của Môhamét ngày càng lớn. Nhiều bộ lạc thừa nhận ông là thủ lĩnh và tình nguyện theo ông. Người Mécca nhận rõ thế yếu của họ.

- Năm 630, Môhamét lại đưa quân đến Mécca. Người Mécca đã ký một hoà ước, chịu thừa nhận quyền lực của Môhamét và chấp nhận Islam giáo. Mécca được thừa nhận là thánh địa, đền Caaba trở thành thánh tích chính của Islam giáo. Môhamét trở thành người cai trị tối cao trên toàn bán đảo.

Như vậy, quá trình ra đời của đạo Islam và bước đầu phát triển của nó gắn liền với quá trình thống nhất bán đảo Ả Rậpvà hình thành nhà nước.

1. Giáo lý cơ bản của đạo Islam

Giáo lý Islam giáo tập trung trong kinh Côran (nghĩa là đọc thuộc lòng), ngoài ra còn có 2 cuốn sách là Sunna và Hadish (chủ yếu nói về hành vi, cử chỉ, cách đối xử của Môhamét trong quá trình truyền đạo)

- Giáo lý căn bản của Islam giáo được tóm tắt trong câu kinh mở đầu các buổi lễ: “Chỉ có một đức Chúa duy nhất là Allah và một vị tiên tri của ngài là Môhamét. Tín đồ phải phục tùng Thánh Allah và quyền lực của Ngài” → Islam giáo là một tôn giáo nhất thần tuyệt đối. Tín đồ Islam giáo tin rằng ngoài Thánh Allah không có một vị thần nào khác. Tất cả những gì ở trên trời dưới đất đều thuộc về Allah. Allah đã tạo dựng nên vòm trời mà không dùng cột, chế ngự được mặt trăng, sáng tạo ra muôn loài. Allah cũng sinh ra loài người và biết linh hồn mỗi người ra sao. Còn Môhamét là sứ giả của Allah thực hiện sứ mạng truyền bá tôn giáo, là tiên tri của tín đồ.

- Islam giáo cũng tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác, nhất là quan niệm của đạo Do Thái về lịch sử sáng thế, quan niệm về thiên đường địa ngục, một số tục lệ, nghi thức như tẩy uế trước khi cầu nguyện, khi cầu nguyện phải hướng về thánh địa Mécca và phải phủ phục, trán chạm đất, cấm ăn thịt heo, thịt các con vật bị chết vì bệnh, thịt đã cúng thần và cấm uống rượu.

- Islam giáo tuyệt đối không thờ ảnh tượng (khác các tôn giáo khác) vì họ quan niệm Allah toả khắp mọi nơi, không có hình tượng nào có thể thể hiện được. Do đó trong thánh thất Hồi giáo chỉ trang trí bằng chữ Ả Rậpxen kẽ với các hình học, hình hoa lá. Chỉ riêng trong đền Caaba ở Mécca có thờ một viên đá đen từ xưa để lại mà thôi.

Tương truyền, Caaba do Abraham và con trai là Ismail - tổ tiên của người Ả Rậpxây nên. Sau khi Abraham qua đời, thiên thần Gabriel đem cho Ismail và mẹ ông là Agar một phiến đá trắng không tì vết để gối đầu. Cách đó không xa, thiên thần khiến cho một nguồn nước thần diệu phun lên, gọi là giếng Zem Zem, nước giếng có thể chữa khỏi mội thứ bệnh. Sau nhiều thế kỷ, tội lỗi của con người làm cho phiến đá dần biến thành màu đen. Người ta xây tường cao bao quanh làm nơi thờ tự. Vào khoảng giữa thế kỷ V, bộ lạc Koraich, vốn vẫn đảm nhận việc canh giữ đền Caaba, đã lập ra quanh đền thờ thành Mécca. Mécca dần trở thành trung tâm của miền Hegiadơ, Caaba cũng trở thành nơi thờ phụng chung của người Ả rập. Có tới 360 vật thờ của các bộ lạc trên khắp bán đảo trong đền Caaba, nhưng Allah Taala, thần của Abraham và Ismail được mọi người Ả Rậpcoi là vị thần chung. Bộ lạc Koraich tiếp tục trông coi và quản lý thu nhập của đền. Họ làm giàu và trở nên có thế lực trong vùng nhờ nguồn thu nhập từ hành hương và hoạt động buôn bán.

- Quan niệm về con người: Islam giáo cũng quan niệm con người có 2 phần: thể xác (tạm thời) và linh hồn (bất tử). Cuộc sống trần gian chỉ là ngưỡng cửa để bước vào cuộc sống vĩnh hằng ở thế giới bên kia → vì thế trong Islam giáo cũng có ngày phục sinh, ngày phán xét cuối cùng như Do Thái giáo, Kitô giáo...

- Quan hệ gia đình: đạo Islam thừa nhận chế độ đa thê, cho phép mỗi tín đồ nam giới được lấy 4 vợ - bằng số vợ Môhamét cưới chính thức (phải là những người theo tôn giáo độc thần)

2. Giáo luật: ngũ trụ (5 điều rường cột)

- Biểu lộ đức tin: niềm tin tuyệt đối vào Thánh Allah, Môhamét là sứ giả của Allah và là vị tiên tri cuối cùng.

Islam giáo có 6 tín ngưỡng lớn gọi là “lục tín”: tin thánh Allah, tin thiên sứ, tin kinh điển, tin sứ giả, tin kiếp sau, tin tiền định.

+ Tin thánh Allah: “ngoài thánh Allah không còn vị thần nào khác”, “Thánh Allah là duy nhất, là độc nhất”. Đây là hòn đá tảng, là hạt nhân tín ngưỡng của đạo Islam, không được phép thoả hiệp hoặc xem thường.

Kinh Côran (chương III, tiết 26) viết: “Hỡi Thánh Allah! Hỡi người chủ toàn quyền xứ sở! Người muốn giao quyền cai quản xứ sở cho ai thì Người giao cho người đó; Người muốn tước quyền cai quản đó từ tay ai thì Người tước đoạt; Người muốn cho ai được tôn vinh thì người đó được tôn vinh, muốn cho ai ti tiện thì người đó phải cam chịu thân phận thấp hèn. Hết thảy mọi phục lợi nằm cả trong tay Người. Người là toàn năng đối với muôn sự trên thế gian này. Người làm cho đêm tiếp đến ngày, ngày nối tiếp đêm. Người lấy ra sinh vật từ vật vô sinh và lấy vật vô sinh ra từ sinh vật. Người ban phát hào phóng cho ai đó được Người sủng ái”

Tín đồ Islam giáo khi cầu nguyện thường giơ một ngón tay trỏ, ngụ ý chí Thánh Allah là độc nhất.

+ Tin thiên sứ là tín điều thứ hai của đạo Islam. Theo kinh Côran thì có rất nhiều thiên sứ. Mỗi thiên sứ cai quản một công việc, chẳng hạn, có thiên sứ đảm nhiệm việc truyền đạt, có thiên sứ giữ trọng trách quan sát vũ trụ và vạn vật, có thiên sứ theo dõi người chết, báo ngày tận thế…Theo truyền thuyết Islam giáo, trước khi Thánh Allah lấy đất tạo ra con người đầu tiên, đã lấy ánh sáng tạo ra thiên sứ trung thành chấp hành mọi mệnh lệnh của đấng Allah, quan sát, theo dõi, ghi chép không hề bỏ sót mọi hành vi thiện ác của mỗi con người trong suốt cuộc đời.

+ Tin kinh điển: tin kinh Côran là bộ kinh Thần thánh do đấng Allah khải thị cho nhà tiên tri Môhamét.

+ Tin sứ giả: tín điều này đòi hỏi tín đồ phải tôn sùng Môhamét - sứ giả và nhà tiên tri của Thánh Allah. Trong đạo Islam có cả thảy 124.000 nhà tiên tri và 350 vị sứ giả. Nhà tiên tri là người trực tiếp nhận những điều khải thị của Thánh Allah và đưa ra được những điều dự đoán, còn sứ giả thì chẳng những thế mà còn nhận những sứ mệnh chuyên môn do Thánh Allah uỷ thác. Do vậy, địa vị của sứ giả cao hơn nhà tiên tri. Môhamét vừa là nhà tiên tri, vừa là sứ giả, đặc biệt là vị sứ giả cuối cùng của Thánh Allah.

+ Tin kiếp sau: Các tín đồ Islam giáo tin rằng sau khi chết con người có thể sống lại và chịu sự phán xét của Thánh Allah vào ngày tận thế. Theo giáo lý đạo Islam, cuộc đời của con người rất ngắn ngủi, nhưng kiếp sau thì tồn tại vĩnh hằng, đây mới chính là nơi ở thực sự. Chết chẳng qua chỉ là chiếc cầu nối kiếp này với kiếp sau. Ngày tận thế, Thánh Allah sẽ phán xét từng người dựa vào công tội trên cõi đời này do thiên sứ đã ghi tỉ mỉ. Những người làm điều lành, tin Thánh Allah là duy nhất, sẽ được sống mãi trên thiên đường, còn kẻ không tin, chuyên làm điều ác sẽ bị đày xuống địa ngục. Thiên đường là một thế giới cực lạc, cây cối tốt tươi, suối chảy róc rách, sữa bò, mật ong, rượu nồng tuôn chảy thành sông. Sống trên thiên đường ăn toàn của ngon vật lạ, mặc toàn lụa là gấm vóc, hưởng phúc đời đời…Còn hoả ngục, đó là nơi ghê rợn, lửa cháy đùng đùng, khói cuộn ngút ngàn. Người bị đày xuống nơi đây cổ đeo gông xiềng, mình lằn roi vọt, lửa hồng thiêu đốt, chịu đủ mọi cực hình tra tấn, chẳng bao giờ ngóc đầu lên được…

+ Tin tiền định: là hạt nhân của thuyết định mệnh Islam giáo. Các tín đồ Islam giáo tin rằng số phận con người do Thánh Allah an bài, con người không cưỡng lại được. Kinh Côran viết: “Không ai được chết, nếu không được Thánh Allah cho phép. Chính Người đã định sẵn tuổi thọ của mỗi con người. Nếu Người muốn ai đó gặp điều tai hoạ thì ngoài Người, không ai có thể giải trừ tai hoạ. Nếu Người muốn ai đó gặp điều may mắn thì không một ai có thể đảo ngược ý định của Người”[7]

- Cầu nguyện: tất cả tín đồ Islam giáo mỗi ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm, có thể cầu nguyện ở bất cứ chỗ nào (trừ những nơi ô uế như lò sát sinh, bãi tha ma), tẩy uế trước khi cầu nguyện (bằng nước hoặc bằng cát), hướng về Mécca. Tư thế khi cầu nguyện: cúi đầu sát mặt đất, lạy nhiều lần. Thứ 6 hàng tuần phải đến thánh thất làm lễ một lần. Ở những nước theo Islam giáo nguyên thuỷ chỉ có đàn ông được đến thánh đường.

- Trai giới (ăn chay): mỗi năm đến tháng Ramađan phải trai giới 1 tháng - tháng Ramađan là tháng thứ 9 của lịch Islam giáo.

Theo kinh Côran, đây là tháng mà thánh Allah ban kinh Côran xuống cho tín đồ Islam giáo, vì vậy mà vào tháng này các tín đồ phải ăn chay từ rạng đông đến hoàng hôn, trong khoảng thời gian đó, các tín đồ không ăn, không uống, không hút thuốc, không quan hệ tình dục, mọi sinh hoạt đều chuyển về ban đêm. Trong tháng ăn chay, mọi tín đồ chỉ được nghĩ về những lời răn dạy của Thánh Allah, về tội lỗi của mình. Kết thúc tháng ăn chay có tổ chức bữa tiệc nhỏ. Tháng Ramađan được miễn cho một số đối tượng như người già, trẻ em dưới 10 tuổi, phụ nữ có thai và cho con bú, những người đi tham gia thánh chiến hoặc đi xa thì được tạm hoãn và phải thực hiện bù vào một dịp khác trong năm.

- Bố thí: mỗi tín đồ tuỳ theo thu nhập (từ 1/10 đến 1/20) mà phải bố thí cho người nghèo, người goá bụa, trẻ mồ côi, người mới nhập đạo, người mắc nợ vì hiếu thảo…Đó là nghĩa vụ có tính chất bắt buộc. Ngoài ra, những đóng góp của tín đồ còn được dùng vào việc xây cất thánh đường, bù đắp những khoản chi tiêu thiếu hụt của chính quyền. Do tính chất bắt buộc nên nó mất đi ý nghĩa “bố thí” đích thực, trở thành một thứ thuế tín ngưỡng đối với các tín đồ.

- Hành hương: bắt buộc tất cả các tín đồ theo đạo ít nhất trong đời một lần phải đến Caaba.

Khi đi hành hương không được mặc quần áo mà chỉ là 2 mảnh vải không có đường khâu, không được đi giầy, trên đường đi không được làm đổ máu, không nhổ cỏ cây, không bắn chim, không giết súc vật. Những người hành hương khi đến chỗ đã nhìn thấy Mécca thì dừng lại để cắm trại. Họ tắm rửa rồi đi vào Mécca. Đầu tiên, họ dừng lại ở giếng Zem Zem để uống một ngụm nước. Nước ở đây sở dĩ được coi là thiêng liêng vì theo truyền thuyết, Ismael, con trai của Abraham (Abraham là giáo chủ đầu tiên của người Hêbrơ, về sau thành thuỷ tổ của người Israel và người Ả rập) đã uống nước ở giếng này. Tiếp đó, họ tiến vào đền Caaba, đi quanh đền 7 lần, hôn hoặc sờ phiến đá đen. Cuộc hành hương kéo dài trong 10 ngày. Trong thời gian ấy, những người hành hương còn có nhiều hoạt động khác. Đến ngày thứ 10, họ cúng một con cừu hoặc một con vật có sừng khác hoặc một con lạc đà. Cúng xong thì mổ ra để ăn và bố thí. Sau đó họ cắt tóc, móng tay móng chân và đem chôn. Ngoài ra họ còn phải đi thăm mộ Môhamét, nếu không thì chưa hoàn thành cuộc hành hương. Sau khi đi hành hương, địa vị của tín đồ được tăng cao.

Ngoài ra Islam giáo còn đề cao thánh chiến. Người Ả Rậpđược Thánh Allah khải thị phải có bổn phận truyền bá giáo lý của Ngài cho những người ngoại đạo, nếu họ không chịu theo thì phải giết đi không thương xót. Chiến tranh nhằm truyền đạo được gọi là thánh chiến (Djihad). Những người tham gia thánh chiến sẽ được lên thiên đàng. Thánh chiến được coi là nghĩa vụ thiêng liêng của người theo Islam giáo.

- Tích cực:

+ Ra đời đúng lúc, đáp ứng được yêu cầu lịch sử của bán đảo Ả Rậplúc bấy giờ (nhu cầu thống nhất quốc gia)

+ Một số tục lệ lạc hậu của các bộ lạc được xoá bỏ sau khi Islam giáo ra đời: tục chọc mù mắt một số con vật để tránh vía dữ, cột lạc đà vào cạnh người chết, chôn sống trẻ gái sơ sinh, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong một chừng mực nào đó (thừa kế tài sản…)

+ Luật lệ không gò bó, phức tạp, nhất là không có tầng lớp tăng lữ, thầy tu. Do đó, Islam giáo lúc đầu thu hút được đông đảo dân nghèo và nô lệ tham gia.

- Hạn chế:

+ Do tính chất độc thần tuyệt đối nên tín đồ đạo Islam đối xử khắc nghiệt với những người theo các tôn giáo khác, cấm kết hôn với người theo đa thần giáo.

+ Đề cao tính chất bạo lực trong quá trình truyền đạo (xuất phát từ hoàn cảnh ra đời)

+ Thừa nhận chế độ đa thê, cho phép lấy nhiều nhất là 4 vợ (nhưng không cho lấy nàng hầu). Riêng Môhamét thì ngoại lệ: có 10 vợ và 2 nàng hầu.

+ Duy trì sự bất bình đẳng với phụ nữ: phụ nữ không được tự đề xuất ly hôn, phải phục tùng chồng, ra khỏi nhà phải mang mạng che mặt…

3. Kinh Thánh

Kinh Côran (tiếng Ả Rậpviết là “Kuran”) nghĩa là “tụng niệm” là “truyền giảng”, trong đó ghi lại những lời nói của Môhamét, nhưng theo tín đồ Islam giáo, đó là những lời phán bảo của Thánh Allah.

Kinh Côran gồm 30 quyển, được chia thành 114 chương, 6236 tiết, đề cập đến những vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực. Đối với người Ả rập, ngoài những nguyên tắc tôn giáo trong đó, kinh Côran còn là một bản tổng hợp mọi tri thức khoa học, mọi nguyên tắc pháp luật và đạo đức. Kinh Côran còn trở thành cơ sở để xây dựng luật pháp ở Ả rập. Nhiều quốc gia Islam ngày nay vẫn xem kinh Koran như là bản hiến pháp bất hủ của dân tộc mình. Trong đời sống thường ngày, khi tuyên thệ, người Ả Rậpthường có thói quen lấy kinh Côran ra và nói: “Đây là kinh Koran, tôi xin thề…”

Các tín đồ Islam giáo coi kinh Côran như một vật linh thiêng. Họ làm những cuốn kinh bé xíu để trong hộp bịt vàng hay bạc hoặc đeo trước ngực để mong gặp những điều may mắn.

4. Quá trình truyền bá

- Cùng với quá trình chinh phục của người Ả Rập, Islam giáo được truyền bá khắp Tây Á, Trung Á, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Ngày nay, Islam giáo được truyền bá rộng rãi trên thế giới, trở thành quốc giáo của nhiều nước như Inđônêxia, Malaixia, Pakixtan, Iran, Irắc…

Trong 3 tôn giáo lớn trên thế giới (đạo Cơ Đốc, đạo Phật, đạo Islam) thì Islam giáo là tôn giáo trẻ nhất và có sức sống mạnh mẽ. Cả thế giới hiện có trên 90 nước có tín đồ Islam giáo, trong hơn 150 quốc gia và địa khu trên toàn thế giới có khoảng 42 quốc gia lấy Islam giáo làm quốc giáo hoặc đặt dưới quyền cai quản của chính quyền Islam giáo. Phần đông các quốc gia Bắc Phi, Tây Nam, Nam và Đông Nam châu Á, hầu hết các dân tộc Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Bắc Ấn theo đạo Islam. Ở Trung Quốc có hơn 50 dân tộc thì có 10 dân tộc theo đạo Islam (gọi là đạo “Thiên phương”, đạo “Thanh Chân”, đạo “Hồi Hồi”). Những thập kỷ gần đây, đạo Islam còn truyền sang nhiều nước Tây Âu và Bắc Mỹ[8].

  • Quá trình truyền bá đạo Islam thường thông qua hai con đường:

+ Cưỡng bách: gắn với những cuộc chiến tranh chinh phục của các tín đồ Islam giáo (Trên lãnh thổ đế quốc Ả Rập, Ấn Độ)

+ Qua hoạt động thương mại, hôn nhân…, mang màu sắc hòa bình (khu vực Đông Nam Á)

Trong hai con đường đó, con đường chiến tranh có vai trò nổi bật (Phải chăng điều đó giải thích nguyên nhân căn bản của điều gọi là tính hiếu chiến của đạo Hồi?)

III. MỘT SỐ THÀNH TỰU VỀ VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT, KHOA HỌC, GIÁO DỤC

1. Văn học

- Thơ ca: truyền miệng và chữ viết

Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của thơ ca Ả Rậplà từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XI, tập thơ nổi tiếng “Anh dũng ca” do hai thầy trò Abu Tammam sưu tầm và hiệu đính. Trong thời kỳ này, ở Ả Rậpxuất hiện nhiều nhà thơ tiêu biểu như Abu Nuvát, Abu la Ala Maari.

- Văn xuôi: nổi tiếng nhất là tác phẩm “Nghìn lẻ một đêm”, hình thành từ thế kỷ X đến thế kỷ XII. Những truyện trong tác phẩm này bắt nguồn từ tập “Một nghìn câu chuyện” của Ba Tư ra đời từ thế kỷ VI, dần dần được bổ sung bằng các truyện thần thoại của Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp…rồi cải biên và gắn lại với nhau thành một truyện dài xảy ra trong cung vua Ả rập. Tập truyện ly kỳ này phản ánh cuộc sống, phong tục, tập quán và ước nguyện của nhân dân các dân tộc trong đế quốc Ả rập, đồng thời thể hiện sức tưởng tượng phong phú của họ.

2. Nghệ thuật:

- Khi mới hình thành nhà nước, nghệ thuật của Ả Rậphết sức đơn điệu, nghèo nàn. Giáo chủ Môhamét cấm điêu khắc, hội hoạ do việc cấm thờ ảnh tượng; cấm dùng trang sức bằng vàng, bạc, lụa vì cho rằng nếu làm như vậy sẽ dẫn người ta đến những ham muốn vật chất, sa ngã. Về sau, những quy định đó dần được nới lỏng.

- Ả Rập có điều kiện tiếp thu nền nghệ thuật của các nước khác: Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ, Bidăngtium. Do vậy, trong nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc có những tiến bộ đáng kể

+ Kiến trúc: xây dựng cung điện và thánh thất của đạo Islam. Các thánh đường của đạo Islam thường được xây dựng công phu, mái vòm hình bát úp, cột thon nhỏ kiểu Ba Tư.

+ Điêu khắc: các nhà điêu khắc Ả Rậpkhông được phép đúc tượng, họ chỉ chạm trổ vào tường để trang trí thánh đường. Trong trang trí nội thất của các thánh đường đều tuân theo một nguyên tắc: không thờ ảnh tượng mà chỉ trang trí hoa lá: hoa sen, hoa cẩm chướng, trang trí bằng các loại hình học: đường thẳng, góc nhọn, hình vuông, hình đa giác, bầu dục, trôn ốc…xen kẽ là những đường gợn sóng, ngôi sao và các bông hoa, đặc biệt là các dòng kinh Côran viết bằng tiếng Ả rập.

- Âm nhạc: Lúc đầu cũng bị cấm, sau đó người ta cho rằng rượu như là thể xác, âm nhạc là linh hồn, nhờ hai thứ đó mà cuộc sống con người mới được vui vẻ, do vậy, âm nhạc dần dần được phổ biến. Tuy nhiên, nhạc Ả Rập khá đơn điệu, buồn tẻ. Người Ả Rập đã sử dụng một số nhạc cụ trong sinh hoạt tập thể: đàn lút, đàn lia, sáo, trống…

3. Khoa học tự nhiên

Khoa học tự nhiên Ả Rậprất phát triển dựa trên những thành tựu của các nền văn minh Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập, Lưỡng Hà

a. Toán học

Người Ảrập tiếp tục phát triển đại số, lượng giác, hình học và hoàn thiện hệ thống chữ số của người Ấn Độ, do đó đã có lúc người ta nhầm lẫn chính người Ả Rập đã sáng tạo ra hệ thống chữ số.

Nhà đại số học nổi tiếng nhất là Môhamét Ibơn Muxa (780-855), tác phẩm “Đại số học” của ông là quyển sách đầu tiên về môn khoa học này.

Nhà toán học Abu Apđala al-Battani (850 – 929) có nhiều đóng góp về môn Lượng giác học với các khái niệm sin, cosin, tang, cotang mà chúng ta sử dụng ngày nay.

b. Thiên văn học: người Ả Rậpcũng rất chú ý quan sát các vì sao và nghiên cứu các vết trên Mặt Trời. Họ cũng cho rằng Trái Đất hình tròn. Al – Biruni, nhà thiên văn học nổi tiếng cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI còn cho rằng vật gì cũng bị hút về phía trung tâm Trái Đất.

c. Địa lý học: do thương nghiệp sớm phát triển nên người Ả Rập sớm có những quyển sách tập hợp các kiến thức địa lý: “Địa chí đế quốc Hồi giáo” của Môhamét Al-Mucađaxi và “Sách của Rôgiê” của Iđrix.

d. Vật lý học: tiêu biểu nhất là Al Haitơham với tác phẩm “Sách quang học” được đánh giá là tác phẩm có tính chất khoa học nhất thời trung đại. Ông biết đến thuỷ tinh thể, sự khúc xạ ánh sáng. Nhờ sự gợi ý của ông mà các nhà vật lý học phương Tây đã chế ra được kính hiển vi và kính viễn vọng.

e. Hoá học: người Ả Rập đã chế tạo ra nồi cất, phân biệt được bazơ và axít, bào chế được nhiều loại thuốc

g. Sinh vật học: thuyết tiến hoá của Ôtman Aman-Giahip từ thế kỷ XIX, cho rằng từ khoáng vật tiến hoá thành thực vật rồi đến động vật, đến người.

Người Ả Rập đã biết ghép cây tạo ra các giống cây mới.

h. Y học: tuy bị cấm giải phẫu và mổ tử thi nhưng Ả Rậpvẫn là nước có nền y học rất phát triển, đặc biệt khoa mắt. Nhiều tác phẩm y học nổi tiếng được dịch ra tiếng Latinh: “Mười khái luận về mắt” của Isác, “Sách chỉ dẫn cho các thầy thuốc khoa mắt” của Ixa, “Bệnh đậu mùa và bệnh sởi” của Radi, “Tiêu chuẩn y học” của Xina…Nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng Latinh và được dùng trong các trường y khoa ở Tây Âu trong nhiều thế kỷ.

Nhà nước Ả Rập đã xây rất nhiều bệnh viện để chữa bệnh miễn phí cho mọi tầng lớp nhân dân, ngoài ra còn tổ chức các đoàn thầy thuốc đến các thị trấn để chữa bệnh cho dân. Một số thầy thuốc còn thường xuyên được cử đến nhà lao để khám bệnh cho tù nhân. Thời trung đại, Ả Rậplà nước có những thành tựu rất lớn về y học và là nước đứng hàng đầu thế giới về sự nghiệp y tế.

4. Giáo dục

- Theo truyền thuyết, Môhamét rất khuyến khích việc mở rộng kiến thức. Ông nói: “Kẻ nào từ biệt gia đình để đi tìm hiểu thêm và mở mang trí thức là kẻ đó đang đi trên con đường của Chúa…Mực của nhà bác học còn linh thiêng hơn máu của người tử vì đạo” [9].

- Chế độ giáo dục gồm 3 cấp: tiểu học, trung học, đại học

Sớm nhất là đại học Cairô thành lập năm 988

- Ngoài ra có trung tâm khoa học, thư viện để nghiên cứu và giảng dạy thần học, thiên văn học, y học.

Đến đầu thế kỷ VIII, người Ả Rập học được cách làm giấy của Trung Quốc. Từ đó sách xuất hiện ngày càng nhiều. Cuối thế kỷ IX, ở Bátđa có đến trên 100 hiệu sách. Thành phố Bát đa khi bị quân Mông Cổ đánh chiếm có đến 36 thư viện công cộng[10]. Trong khi ở Tây Âu, văn hoá đang suy thoái thì các trung tâm đại học của Ả rập, nhất là Coócđôba đã thu hút nhiều lưu học sinh các nước Tây Âu đến học tập.

=> Tóm lại, văn minh Ả Rập rất rực rỡ và toàn diện. Người Ả Rậpcó nhiều đóng góp to lớn vào kho tàng văn minh nhân loại, đồng thời họ có vai trò rất lớn trong việc bảo tồn nhiều di sản văn hoá của Hy Lạp cổ đại;  trong sự giao lưu văn minh phương Đông và văn minh phương Tây (người Ả Rập là trung gian truyền bá nhiều phát minh quan trọng của phương Đông như chữ số của Ấn Độ, nghề in, thuốc súng, la bàn của Trung Quốc sang Tây Âu).

 

[1] Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, tái bản lần thứ bảy, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003.

[2] Những giai đoạn sau này, dù công cụ lao động có tiến bộ hơn (sử dụng đồng thau) song các kim tự tháp khổng lồ không được xây dựng nữa.

[3] Mohamed Saleh, Viện bảo tang Ai cập ở Cairo, Người dịch: Việt Thư, NXB Lao động xã hội, HN, 2008, tr.87.

[4] Mohamed Saleh, Viện bảo tang Ai cập ở Cairo, tr.108.

[5] Mohamed Saleh, Viện bảo tang Ai cập ở Cairo, tr.134.

[6] Nguyễn Thị Thư, Nguyễn Hồng Bích, Nguyễn Văn Sơn, “Lịch sử Trung Cận Đông”, NXB Giáo dục, 2007, tr 73 – 74.

[7]  Nhiều tác giả, Almanach - Những nền văn minh thế giới, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1996, tr 1048 – 1051.

[8] Nhiều tác giả, Almanach - Những nền văn minh thế giới, tr 1048.

[9] Vũ Dương Ninh (cb), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục, 2000, tr 66.

[10] Vũ Dương Ninh (cb), Lịch sử văn minh thế giới, tr 67.

Documents:

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
    Top