QUAN HỆ THƯƠNG MẠI ĐÀI LOAN – VIỆT NAM TỪ 1990 ĐẾN 2010
A A+
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI ĐÀI LOAN – VIỆT NAM TỪ 1990 ĐẾN 2010

Van Ngoc Thanh

(International Conferece: Viet Nam, ASEAN, Taiwan: Quan he da phong va song phuong), Hue 2011

1. Từ những năm 50 của thế kỷ XX, Đài Loan đã thiết lập được mối quan hệ khá ổn định với các nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, quan hệ thương mại Đài Loan - Việt Nam mới thực sự được đẩy mạnh từ những năm 90 đến nay. Dù muộn màng nhưng đây là mối quan hệ phát triển khá mạnh mẽ. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư, trong tổng số 92 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, Đài Loan hiện là nhà đầu tư lớn nhất[1].Điều này xuất phát từ nhiều cơ sở.

Trước hết, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Đài Loan từ những năm 1980 là nhân tố quan trọng, làm cơ sở cho sự phát triển quan hệ thương mại với bên ngoài, trong đó có Việt Nam. Đến cuối năm 2007, GDP của Đài Loan (theo cách tính thông thường là 375 tỷ USD) đứng thứ 36 trên thế giới (theo PPP là 690 tỷ USD, đứng thứ 18), tổng ngoại thương đạt khoảng 466 tỷ USD, nằm trong nhóm 20 nước đứng đầu và dự trữ ngoại tệ với 274,7 tỷ USD, đứng thứ 4 thế giới[2]. Đài Loan cùng với Nhật Bản, Trung Quốc lục địa Hàn Quốc, Hongkong và Xingapo trở thành những đầu tàu kinh tế ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Năm 1994, Chính quyền Lý Đăng Huy của Đài Loan đưa ra “Phương hướng tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại với Đông Nam Á”, thường được biết đến như là chính sách “Hướng Nam”. Tiếp đó, tháng 5-2002, chính quyền Trần Thụy Biển đã đưa ra kế hoạch “Thách thức năm 2008” kêu gọi các nhà đầu tư trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của Đài Loan. Chương trình này có mục tiêu là cải thiện toàn bộ các ngành kết cấu hạ tầng cũng như dịch vụ của Đài Loan. Điều này có nghĩa là Đài Loan sẽ tập trung nhiều hơn vào các ngành công nghệ cao và nhanh chóng chuyển các ngành cần nhiều lao động ra nước ngoài. Do vậy, lãnh đạo Đài Loan càng khuyến khích các doanh nghiệp đẩy nhanh chính sách “Hướng Nam”, góp phần tạo nên “làn sóng” đầu tư và thương mại ở khu vực.
Ở Việt Nam, bên cạnh việc đối mặt với nguy cơ khủng hoảng và sụp đổ vào giai đoạn 1986-1988, các thị trường chính của Việt Nam tại Liên Xô và Đông Âu hầu như biến mất do cơn chấn động chính trị diễn ra trong những năm 1989 - 1991. Bối cảnh đó đã làm cho cuộc Đổi mới trở nên cấp thiết, quyết liệt. Việt Nam nhanh chóng tiến hành những cải cách cơ cấu nền kinh tế, chuyển dần từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế định hướng thị trường; ưu tiên tăng cường ngoại thương và thu hút đầu tư nước ngoài; tạo việc làm cho hàng triệu lao động... Những thành tựu của công cuộc đổi mới cùng với các lợi thế của một nền kinh tế mới nổi, của điều kiện tự nhiên và dân cư… đã góp phần đưa Việ Nam trở thành một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, trong đó có Đài Loan.
Cần phải thấy rằng, những biến động mạnh mẽ của tình hình thế giới trong những năm cuối thế kỷ XX có tác động mạnh mẽ đến quan hệ thương mại Đài Loan - Việt Nam. Bên cạnh những hệ lụy do sự sụp đổ của trật tự Ianta, chúng ta còn thấy nhiều yếu tố quan trọng khác. Chẳng hạn như: Thứ nhất, sự gia tăng mạnh mẽ của thương mại toàn cầu và đi kèm với nó là xu hướng bảo hộ mậu dịch của các khu vực. Trong bối cảnh Đài Loan bị nhìn nhận không phải với tư cách là một quốc gia mà như một vùng lãnh thổ và Việt Nam đang nỗ lực phá thế bị bao vây, cô lập để gia nhập vào đời sống kinh tế thế giới thì việc hai bên nhanh chóng phát triển quan hệ thương mại, đầu tư là khá dễ hiểu. Đến nay, Việt Nam đã khá thành công trong việc đa dạng hóa các quan hệ kinh tế với hơn các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới nhưng Đài Loan vẫn tiếp tục là một trong những đối tác kinh tế quan trọng. Thứ hai, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc lục địa cũng có những tác động không nhỏ. Dù luôn tìm cách hạn chế các nước trên thế giới có quan hệ ngoại giao với Đài Loan nhưng Trung Quốc Đại lục luôn tìm cách thu hút đầu tư, đẩy mạnh quan hệ mậu dịch hai bờ eo biển Đài Loan nhằm phục vụ cho cải cách ở Lục địa, và xa hơn là chiến lược thống nhất Đài Loan theo con đường “Một nước hai chế độ”. Lập trường “Một nước Trung Quốc” được hai bên thống nhất nhưng những căng thẳng về chính trị giữa hai bờ vẫn hiện hữu và sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của Trung Quốc Đại lục dẫn đến “ưu đãi” kinh tế cho Đài Loan ít đi và áp lực cạnh tranh đối với Đài Loan sẽ tăng lên. Những hành động của Trung Quốc Đại lục thời gian qua cho thấy sự “trỗi dậy” của họ không hề “mềm” mà có những yếu tố làm cho thế giới lo ngại. Do đó, quan hệ thương mại của Đài Loan cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, những tình cảm của chủ nghĩa dân tộc cùng với tính cạnh tranh cao của môi trường đầu tư luôn là lợi thế của Trung Quốc Đại lục trong mối quan hệ với Đài Loan. Điều này giải thích vì sao từ năm 2009 quan hệ thương mại Đài Loan - Việt Nam có dấu hiệu “lạnh dần”[3] Thứ ba: Cũng như Đài Loan và Trung Quốc Đại lục, Việt Nam luôn nhất quán với chính sách “Một nước Trung Quốc”. Việt Nam chỉ duy trì các mối quan hệ không chính thức với Đài Loan, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, các mối quan hệ này không thể tách rời các mối quan hệ của Đài Loan với các nước ASEAN và không được chính trị hóa. Như Rodolfo C. Severino, nguyên Tổng Thư ký ASEAN đã chỉ rõ: “Mối quan hệ đó muốn được tiếp tục duy trì thì không nên bị chính trị hóa. Có nhiều cách khác nhau để đạt được các mục tiêu về thương mại của các hiệp định như vậy mà không làm cho người ta hiểu nhầm công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập. Trong bất cứ trường hợp nào, cần phải cực kỳ cẩn thận trong việc làm đó, bởi nó sẽ gây ra nhiều hệ lụy về chính trị…”[4].
Việc Việt Nam chính thức gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai bên. Trong con mắt của các quan chức chính quyền và lãnh đạo doanh nghiệp Đài Loan, Việt Nam là một thị trường rất gần gũi với họ, nhiều cảng biển, chỉ mất hơn 3 giờ bay và đang ngày càng hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng Đài Loan cũng thừa nhận tình trạng nhập siêu của Việt Nam trong quan hệ thương mại sẽ còn kéo dài do cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu song phương khó thay đổi trong tương lai gần[5]. Việt Nam nhập khẩu nhiều máy móc, thiết bị, đồ gia dụng từ Đài Loan trong khi xuất sang chủ yếu là hàng nông sản hay thủ công mỹ nghệ giá trị thấp. Đây là một thách thức lớn trong quan hệ thương mại giữa hai bên.
2. Theo thống kê của Tổng cục thuế quan Đài Loan, tổng kim ngạch mậu dịch Đài Loan - Việt Nam đã tăng lên liên tục và tương đối ổn định qua các năm. Nếu như năm 1990 kim ngạch hai chiều chỉ đạt 118.3 triệu USD thì 1 năm sau, năm 1991 đã tăng lên gần gấp đôi (232,3 triệu USD) đạt tỉ lệ tăng trưởng 96,4%. Đến năm 1992, 1993 kim ngạch hai chiều vẫn tiếp tục tăng. Đến năm 1995, giá trị kim ngạch có sự tăng lên đột biến, đạt 1,283 tỷ USD, tăng 33,5% so với năm 1994[6]. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng đột biến này là năm 1995 chính phủ Đài Loan bắt đầu thực hiện “chính sách hướng Nam[7], trong đó Việt Nam là một trong những thị trường được các doanh nghiệp Đài Loan chú ý. Mặt khác, năm 1995, Mĩ đã bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Các doanh nghiệp Đài Loan coi đó là cơ hội lớn để tiếp cận hàng hoá của mình vào thị trường này. Ngoài ra, thời gian này các hoạt động khác hỗ trợ cho hợp tác kinh tế giữa hai nước cũng diễn ra rất hiệu quả như tháng 7-1995 Việt Nam đã tổ chức thành công hai cuộc hội thảo về biện pháp thắt chặt và hợp tác có hiệu quả hơn nữa sự hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Đài Loan[8]. Nhờ đó hai bên đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc về quan thuế, về hình thức đầu tư, nguồn lao động… Từ năm 1996 đến 1997, giá trị kim ngạch hai chiều tiếp tục tăng với các chỉ số tương ứng là 1,492 tỷ USD và 1,688 tỷ USD song có chiều hướng chững lại và giảm đột ngột vào năm 1998, kim ngạch hai chiều giữa hai nước không những không tăng mà còn giảm sút với mức âm 9%. Sở dĩ có tình trạng đó là do tác động của cuộc khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ châu Á năm 1997 bắt đầu từ Thái Lan. Cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền kinh tế trong khu vực, trong đó có Đài Loan. Bước sang năm 1999, khi nền kinh tế của các nước được dần dần hồi phục trở lại thì giá trị kim ngạch giữa Việt Nam - Đài Loan cũng bắt đầu có nhiều dấu hiệu tích cực. Năm 1999 đạt 1,729 tỉ USD đến năm 2000 đạt 2,132 tỷ USD. Kể từ đó, giá trị kim ngạch liên tục tăng lên với tốc độ trung bình khoảng 1 tỷ USD/năm. Năm 2006, giá trị kim ngạch hai chiều đạt 5,6 tỷ USD, Đài Loan trở thành một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, sau Trung Quốc, Nhật Bản, Xingapo.
Bảng 1: Kim ngạch mậu dịch Đài Loan - Việt Nam (1990- 2006)
Đơn vị: nghìn USD
Năm
Tổng kim ngạch hai chiều
Đài Loan
 xuất khẩu
Đài Loan
nhập khẩu
Kim ngạch
Tỉ lệ tăng trưởng(%)
1990
118.300
 
62.744
55.566
1991
232.349
96,4
152.286
80.063
1992
404.366
72,8
278.466
122.900
1993
655.414
63,3
501.275
154.139
1994
961.514
46,7
742.568
218.946
1995
1.283.913
33,5
1.013.635
270.278
1996
1.492.050
16,2
1.175.327
316.723
1997
1.688.600
13,2
1.297.187
391.413
1998
1.556.290
-9,2
1.213.285
343.005
1999
1.729.265
11,1
1.341.503
387.762
2000
2.132.293
23,3
1.663.392
468.847
2001
2.814.674
32,0
2.008.677
805.997
2002
3.342.967
18,8
2.525.578
817.689
2003
3.664.664
10,9
2.915.487
749.157
2004
4.603.874
25,6
3.698.012
905.862
2005
5.265.121
14,4
4.328.966
936.155
2006
5.790.000
9,9
4.822.000
968.700
Số liệu của bảng 1 cũng cho chúng ta thấy một sự tăng trưởng không cân xứng trong cán cân thương mại của hai bên, trong đó chiều hướng không có lợi nhiều hơn liên tục nghiêng về phía Việt Nam. Nghĩa là lợi ích thu được của các doanh nghiệp mậu dịch Đài Loan luôn được nhiều hơn lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự chênh lệch đó ngày càng cao và thậm chí là gấp nhiều lần. Nếu như năm 1990, Đài Loan xuất khẩu sang Việt Nam là 62,7 triệu USD và nhập khẩu từ Việt Nam là 55,5 triệu USD, đó là một sự chênh lệch không đáng kể. Nhưng từ năm 1995 trở đi, cán cân thương mại giữa Đài Loan với Việt Nam chênh lệch gấp 3 lần. Mức thâm hụt mậu dịch của Việt Nam so với Đài Loan qua các năm là: 1995: 743,3 triệu USD (70% tổng giá trị kim ngạch); 2000: 1,194 tỉ USD (85%); 2005: 3,392 tỉ USD (82,2%); 2006: 3,853 tỉ USD (83,3%). Điều này cho thấy tốc độ xuất khẩu của Đài Loan sang Việt Nam ngày càng mạnh, trong khi đó tốc độ nhập khẩu của Đài Loan từ Việt Nam lại tăng rất chậm. Đó cũng là thực trạng chung của nền thương mại Việt Nam trong nhiều năm qua, điều này được chứng tỏ qua số liệu ở bảng sau.
Bảng 2: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ Đài Loan 1990-2006
                                                               Đơn vị: nghìn USD
Năm
Tổng kim ngạch
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Năm
Tổng kim ngạch
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1990
5.156,4
2.404,0
2.752,4
1998
20.859,0
9.360,0
11.499,0
1991
4.425,2
2.087,1
2.049,0
1999
23.162,0
11.540,0
11.622,0
1992
5.121,4
2.552,4
2.540,3
2000
29508,0
15.200,0
14.308,0
1993
6.909,2
2.952,0
3.924,0
2001
31.100,0
15.100,0
16.00,0
1994
9.880,0
4.054,3
5.825,8
2002
35.830,0
16.530,0
19.300,0
1995
13.604,3
5.448,9
8.155,4
2003
44.875,0
19.880,0
24.995,0
1996
18.399,5
7.255,9
11.143,6
2004
58.457,0
26.503,0
31.953,8
1997
20.171,0
8.900,0
11.271,0
2005
69.110,0
32.230,0
36.880,0
 
 
 
 
2006
84.015,0
39.605,0
44.410,0
Thống kê gần nhất của Việt Nam cho thấy kim ngạch xuất nhập khẩu hai bên đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng: Năm 2009, Tổng kim ngạch là 7.373.199.000  USD, trong đó: Xuất khẩu đạt: 1.120. 643.000  USD, Nhập khẩu đạt: 6.252.556.000 USD[9]; Chỉ trong 11 tháng của năm 2010, Kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng năm 2010 giữa Việt Nam và Đài Loan đạt 7.565.379.345  USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó xuất khẩu đạt: 1,287,558,236  USD, (tăng 28,5% so với cùng kỳ năm 2009); Nhập khẩu đạt: 6,277,821,109  USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2009[10].
Từ những số liệu của bảng 2 còn cho chúng ta thấy rằng, giá trị kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Đài Loan không ngừng tăng cao. Nếu như từ 1993 trở về trước, mức tăng nhập khẩu của Việt Nam từ Đài Loan chỉ đạt 10% thì đến năm 1995 đã tăng lên 12%, chứng tỏ hàng hoá của Đài Loan rất phù hợp với thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam. Đồng thời phản ảnh “trình độ” thâm nhập thị trường của các thương nhân Đài Loan và họ ngày càng chiếm được thứ bậc quan trọng trong 10 nước đứng đầu về bạn hàng nhập khẩu của Việt Nam. Năm 1990 Đài Loan chỉ đứng thứ 8 trong 10 nước và khu vực có giá trị kim ngạch xuất khẩu vào Việt Nam nhưng đến năm 1995 đã vươn lên vị trí thứ 4 và sau đó là thứ 3, sau các nước Trung Quốc và Singapo. Theo số liệu chính thức của Việt Nam, đến cuối năm 2007, Đài Loan đã đầu tư khoảng 10,5 tỷ USD, chiếm khoảng 12,7 % tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong cùng thời gian, mức giải ngân thực tế thì chỉ vào khoảng 3,07 tỷ USD, chiếm 29,2% tổng vốn đăng ký của Đài Loan[11]. Tỷ lệ này thấp hơn khi so sánh với một số nước có vốn FDI hàng đầu tại Việt Nam khác như Xingapo (35,5%) và Nhật (55,3%), mặc dù tỷ lệ này của nước có FDI lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc chỉ vào khoảng 20%[12]. Phần lớn đầu tư của Đài Loan ở Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực sản xuất như xây dựng, sản xuất các thiết bị điện tử và dệt may. Điều này cũng có nghĩa là “chất lượng” của mối quan hệ này là chưa cao[13].
Về xuất khẩu, giá trị kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan sang Việt Nam đã không ngừng liên tục tăng lên qua các năm nhưng ở chiều ngược lại, chiều nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam tuy có tăng về giá trị kim ngạch nhưng tăng rất chậm và nếu như so sánh trong sự đối sánh với 10 quốc gia và vùng lãnh thổ nhập khẩu lớn hàng hoá từ Việt Nam thì Đài Loan không hề cải thiện được vị trí, trái lại đứng gần như ở vị trí sau chót trong bảng xếp hạng. Đài Loan chỉ đứng vị trí thứ 9 trong 10 nước có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất từ Việt Nam. Thứ bậc đó đang phản ánh một sự yếu kém nhiều mặt từ phía Việt Nam, từ khâu tiếp thị, quảng bá cho đến chất lượng hàng hoá của Việt Nam đối với thị trường Đài Loan.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam thì Đài Loan hiện là bạn hàng lớn thứ 5 của Việt Nam sau Trung Quốc, Nhật Bản, Mĩ, Singapo. Còn theo số liệu thống kê của Tổng cục Thuế quan Đài Loan thì kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam - Đài Loan cũng chiếm một vị trí tương đối trong khu vực Đông Nam Á, chiếm khoảng 5,82%. Thị phần của Việt Nam hiện xếp thứ 6 sau Singapo, Malaixia, Thái Lan, Inđonexia, Philippin trong tổng kim ngạch buôn bán giữa Đài Loan với 10 nước Đông Nam Á.
Bảng 3: Kim ngạch mậu dịch của Đài Loan với 10 nước Đông Nam Á năm 1991 và 2006
Đơn vị: triệu USD
 
Tổng thương mại
Xuất khẩu
Nhập khẩu
 
1991
2006
1991
2006
1991
2006
Brunây
66,68
15,92
4,84
13,73
61,84
2,19
Inđônêxia
2,441.53
15,92
1,207.20
2,499.41
1,234.32
5,204.25
Campuchia
0,04
466,30
0,0012
458,49
0,04
7,81
Lào
272
42,03
1,86
2,50
0,86
39,52
Mianma
21,18
116,81
2,68
67,83
18,50
48,98
Malaixia
2,874.20
10,992.85
1,464.84
4,941.33
1,409.35
6,051.51
Philippin
1,083.32
7,259.85
848.01
4,484.34
235.30
2,775.51
Xingapo
3,849.32
14,384.94
2,403.47
9,279.40
1,445.84
5,105.54
Thái Lan
2,030.98
7,893.89
1,444.85
4,576.51
586,12
3,317.37
Việt Nam
232,34
5,719.16
152,28
4,869.22
80,06
849,93
ASEAN 10
12,602.34
54,595.45
7,530.07
31,192.81
5,072.26
23,402.64
Việt Nam chiếm (%)
1.84
10.4
2.02
15.6
1.57
3.63
Nguồn: Bộ Tài chính Đài Loan
3. Hiện Đài Loan là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, giá trị kim ngạch mậu dịch hai chiều hiện nay đạt gần 7,6 tỉ USD. Sự khác nhau về trình độ phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học công nghệ, kinh tế tất yếu dẫn đến sự không tương đồng về giao dịch hàng hoá. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của mối quan hệ thương mại Đài Loan Việt Nam cũng phản ánh rõ thực tế này. Nếu như hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Đài Loan chủ yếu là những mặt hàng “tinh” với hàm lượng khoa học kỹ thuật cao thì ngược lại hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Đài Loan lại chủ yếu là những mặt hàng thô, phần lớn là do yếu tố của tự nhiên và lao động thủ công làm nên. Trong thời đại mà khoa học kỹ thuật đang trở thành nhân tố chủ yếu quyết định đến chiều hướng phát triển của một nền kinh tế thì đương nhiên những mặt hàng có hàm lượng chất xám cao hơn sẽ có giá trị kinh tế lớn hơn và ngược lại những hàng hoá không có hoặc rất ít hàm lượng khoa học sẽ nhận được giá trị kinh tế nhỏ hơn. Cho nên chúng ta cũng hoàn toàn dễ hiểu tại sao sự thâm hụt thương mại trong cán cân mậu dịch hai chiều lại luôn nghiêng về phía Việt Nam.
Những sản phẩm chủ yếu mà Đài Loan nhập khẩu từ Việt Nam là những sản phẩm mà Đài Loan không có được lợi thế, như: các loại tài nguyên khoáng sản trong tự nhiên, lực lượng lao động… Trong khi đó Việt Nam lại phải nhập khẩu những sản phẩm của Đài Loan mà Việt Nam không có được lợi thế, như: các loại linh kiện máy móc, các loại công nghệ mà Việt Nam chưa thể chế tạo được. Theo thống kê của Tổng cục Thuế quan Đài Loan, những mặt hàng chủ yếu mà Đài Loan xuất khẩu sang Việt Nam là: hàng dệt (713,6 triệu USD); hàng dệt từ sợi tơ tằm (522,4 triệu USD); da bò, da ngựa (517,9 triệu USD); linh kiện sản xuất giấy (494,4 triệu USD); các loại xăng dầu (355,2 triệu USD); máy móc, thiết bị nhà xưởng, phòng thí nghiệm (221,5 triệu USD); linh kiện và phụ tùng ô tô (218,8 triệu USD)… Những mặt hàng chủ yếu mà Đài Loan nhập khẩu từ Việt Nam là: đồ gỗ gia dụng (178,8 triệu USD); ghế ngồi, giường tủ (161,5 triệu USD); quần áo nam giới và bé trai (131,2 triệu USD); gỗ (126,6 triệu USD); lông chim (110,1 triệu USD); cao su tự nhiên (88,2 triệu USD); than đá, than bánh, than tròn (38,2 triệu USD)….
Sau 25 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước tiến “ngoạn mục” trong công cuộc phát triển kinh tế[14]. Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại với Đài Loan, xét theo cơ cấu mặt hàng thì chưa có nhiều thay đổi. Các số liệu thống kê của Việt Nam về kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Đài Loan năm 2009[15] và năm 2010[16] cũng phản ánh rõ điều này: Năm 2009 đạt 7.373.199.000  USD, trong đó xuất khẩu đạt: 1.120. 643.000  USD, chiếm tỷ trọng cao nhất theo thứ tự là: hàng Dệt may (215,5 triệu USD);  hàng Hải sản (98,616 triệu  USD);  Gạo ( 81,616 triệu USD);  Máy móc, thiết bị phụ tùng khác (62,978 triệu USD);  Giấy và các sản phẩm từ giấy (62,845 triệu USD). Nhập khẩu đạt: 6.252.556.000 USD, chiếm tỷ trọng cao nhất theo thứ tự là:  Xăng dầu các loại (1.001,555 triệu USD); Vải các loại (785,671 triệu USD); Sắt thép các loại (717,627 triệu USD); Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng  (648,604 triệu USD);  Chất dẻo nguyên liệu (455,318 triệu USD).
Bảng 4: Số liệu kim ngạch nhập khẩu của Đài Loan từ Việt Nam năm 2010[17] 
Tên hàng
Đơn vị tính
Kim ngạch
Ô tô 9 chỗ ngồi trở xuống
USD
5,040
Đá quý, kim loại quý và Sản phẩm
USD
15,277,649
Bánh, kẹo và sản phẩm từ ngũ cốc
USD
15,814,892
Cà phê
Tấn
2,315,036
Cao su
Tấn
102,645,085
Chất dẻo nguyên liệu
Tấn
3,588,949
Chè
Tấn
26,484,473
Dây điện & dây cáp điện
USD
7,405,660
Gạo
Tấn
142,704,502
Gỗ và Sản phẩm từ gỗ
USD
48,889,501
Giày dép các loại
USD
45,417,119
Giấy các loại
USD
17,158,501
Hàng rau quả
USD
19,981,236
Hàng thủy sản
USD
110,725,330
Hạt điều
Tấn
10,991,665
Hạt tiêu
Tấn
820,481
Hóa chất
USD
5,874,244
Hàng hóa khác
285,679,160
Hàng hóa khác
41,462
Hàng hóa khác
1,208,666
Hàng hóa khác
43,868
Linh kiện và phụ tùng xe máy
USD
8,407,737
Linh kiện, phụ tùng ô tô khác
USD
5,184,029
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng
USD
86,757,058
Máy vi tính, Sản phẩm điện tử & linh kiện
USD
13,968,431
Phôi thép
Tấn
212,212
Phư­ơng tiện vận tải khác & phụ tùng
USD
5,483,266
Quặng và khoáng sản khác
Tấn
404,761
Sản phẩm dệt, may
USD
149,744,825
Sản phẩm gốm, sứ
USD
32,908,220
Sản phẩm hóa chất
USD
32,267,155
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm
USD
8,127,220
Sản phẩm từ cao su
USD
13,843,429
Sản phẩm từ chất dẻo
USD
23,323,043
Sản phẩm từ giấy
USD
53,714,984
Sản phẩm từ sắt thép
USD
40,668,057
Sắn và các sản phẩm từ  sắn
Tấn
11,763,508
Sắt thép loại khác
Tấn
34,959,158
Tàu thuyền các loại
USD
622,103
Than đá
Tấn
10,949,708
Thủy tinh và các sản phẩm bằng thuỷ tinh
USD
6,764,918
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù
USD
7,557,339
Vải các loại
USD
31,723,992
Xe máy nguyên chiếc
USD
400
Tổng
USD
1,442,841,884
                                                                          Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Các liệu thống kê đã trình bày ở trên cho thấy, trong khi các doanh nghiệp Đài Loan luôn luôn đứng ở vị trí xuất siêu thì phía Việt Nam lại luôn ở vị trí nhập siêu và có chiều hướng ngày càng tăng lên. Nếu như chiều hướng này không được điều chỉnh thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều bất lợi. Lợi ích mà Việt Nam thu được so với phía các doanh nghiệp Đài Loan còn nhiều bất cập và cần được điều chỉnh..
Nguyên nhân của tình trạng này là do: Trước hết, về chủ quan, Việt Nam đi lên từ một nền kinh tế thấp kém, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu dẫn đến chất lượng hàng hoá khó có được điều kiện để cạnh tranh với một nền kinh tế phát triển cao hơn. Hơn nữa, trình độ tổ chức quản lý kinh tế của Việt Nam còn yếu, từ khâu tiếp thị, đến phân phối hàng hoá… Việt Nam chưa thể tạo lập và hình thành được những mạng lưới phân phối đủ mạnh có hệ thống và có thương hiệu ở thị trường Đài Loan; chưa nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng của người dân Đài Loan như các doanh nhân Đài Loan đã nắm bắt ở thị trường Việt Nam. Kinh tế Việt Nam vốn đang trong giai đoạn chuyển đổi, các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá còn hết sức mập mờ, chưa minh bạch, rõ ràng. Với Đài Loan, Việt Nam là một thị trường “dễ tính” cho nên hàng hoá của Đài Loan khi nhập vào Việt Nam được dễ dàng chấp nhận hơn nhiều so với chiều ngược lại. Hai là, hàng hóa của Việt Nam khi xâm nhập vào thị trường Đài Loan gặp phải trở ngại lớn từ một đối thủ khổng lồ Trung Quốc. Họ không chỉ thuận lợi hơn ta về mặt giao thông vận tải, về tình “máu mủ ruột rà” mà về cả quy mô, chủng loại, đặc biệt là về giá cả cũng đều vượt trội so với hàng hoá của Việt Nam. Đây là một thực tế trong cuộc cạnh tranh không khoan nhượng của “luật chơi” thị trường tự do vốn rất “lạnh lùng”. Giải quyết được các vấn đề này là không đơn giản, một sớm một chiều.
TÓM TẮT
Quan hệ thương mại Đài Loan - Việt Nam mới thực sự được đẩy mạnh từ những năm 1990 đến nay nhưng đây là mối quan hệ phát triển khá mạnh mẽ.Điều này xuất phát từ nhiều cơ sở. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Đài Loan từ những năm 1980 và chính sách ưu tiên mở rộng quan hệ với khu vực Đông Nam Á; công cuộc đổi mới ở Việt Nam; sự thay đổi của tình hình thế giới cũng như sự trỗi dậy của Trung Quốc lục địa.

Từ năm 1990 đến nay, quan hệ thương mại Đài Loan - Việt Nam phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, thể hiện rõ qua kim ngạch xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, do trình độ kinh tế còn thấp nên Việt Nam là nước chịu thiệt thòi hơn. Điều này thể hiện cả trong cán cân cũng như cơ cấu mặt hang xuất nhập khẩu của hai bên.



[1] Theo Đài Loan là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam,http://www.tinkinhte.com/tai-chinh-dau-tu/tin-dau-tu-viet-nam/dai-loan-la-nha-dau-tu-lon-nhat-vao-viet-nam.nd5-dt.137663.123126.html : Sau hơn 20 năm kể từ khi có Luật đầu tư ra nước ngoài, tính đến hết năm 2010, Việt Nam có 12.213 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 192,92 tỷ USD. Sau khi rà soát lại toàn bộ nguồn vốnFDI này, Đài Loan đã vượt lên trở thành nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam. Tổng nguồn vốn FDI từ vùng lãnh thổ này "rót" vào Việt Nam đã đạt hơn 22,81 tỷ USD với 2.146 dự án, chiếm 11,82% về vốn và 17,57% về số dự án.
Đáng chú ý, tới 82% vốn của Đài Loan là đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, chế tạo, một lĩnh vực được khuyến khích trong chính sách thu hút đầu tư FDI của Việt Nam. Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, lĩnh vực này đã có tới 1726 dự án, chiếm 18 tỷ USD, kế đến là bất động sản với 1,4 tỷ USD, lĩnh vực xây dựng khoảng 1,2 tỷ USD. Còn lại các lĩnh vực như tài chính bảo hiểm ngân hàng, nông lâm thủy sản, dịch vụ lưu trú, ăn uống đều có vốn đầu tư trên 100 triệu USD.
[3] Mô%3ḅt số đô%3ḅng thái quan hê%3ḅ kinh tế Viê%3ḅt Nam - Đài Loan - Trung quốc thời gian gần đâyhttp://www.ttnn.com.vn/nuoc-lanh-tho/265/tin-tuc/23692/mot-so-dong-thai-quan-he-kinh-te-viet-nam-dai-loan-trung-quoc-thoi-gian-gan-day.aspx
Theo bài báo này, các số động thái sau đây có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam:
1. Công ty Compal Electronocs Inc Đài Loan (chuyên sản xuất máy tính xách tay - Note Books - hàng đầu thế giới) đã tuyên bố, sẽ bỏ ra 180 triệu USD xây dựng tại Côn Sơn (Giang Tô) một cơ sở sản xuất Note Books thứ 2 với 4 nhà xưởng sản xuất Note Books, 2 nhà xưởng lắp ráp màn hình hiển thị phẳng, 1 trung tâm nghiên cứu phát triển… Năm 2006, Compal đã từng tuyên bố sẽ xây dựng cơ sở sản xuất thứ 2 của mình tại Việt Nam, tạo nên chấn động trong giới điện tử. Nhưng hiện nay, cơ sở sản xuất thứ 2 này được gấp rút thực hiện tại Trung Quốc, như vậy tiến trình xây dựng tại Việt Nam sẽ chậm lại. Nguyên nhân của động thái trên, phát ngôn viên của Compal cho biết: đính thân Bí thư Tỉnh ủy Giang Tô mời chào, khẳng định sẽ dành nhiều ưu đãi và cấp ngay đất theo yêu cầu, không phải chờ đợi. Trong khi bên VN vẫn bị ảnh hưởng của việc giao đất và bãi công.
2. Tập đoàn AUO (AU Optronics Corp.) sau một thời gian dài bị chính phủ Đài Loan cấm không được đầu tư sản phẩm cao cấp (LGD 8.0) sang Trung Quốc, nay đã quyết định đầu tư sang Trung Quốc, chứ không phải sang Việt Nam. Trả lời câu hỏi tại sao, quan chức AUO nói: Thị trưởng thành phố Quảng Châu trong chuyến thăm Đài Loan đã đưa ra lời mời, nói rằng chỉ cần AUO đầu tư, mọi thủ tục sẽ do Thị trưởng giải quyết.
3. Quan chức Tập đoàn CMO (Chi Mei Optoelectronics) cho hay, mặc dù tỷ trọng sản lượng màn hình hiển thị tại Trung Quốc chiếm 40% của Tập đoàn, nhưng với chính sách ưu đãi mới của cả Chính phủ Trung Quốc và Đài Loan, Tập đoàn sẽ không ngần ngại tập trung đầu tư thêm vốn vào Trung Quốc, và sẽ chậm tiến độ đầu tư tại một số thị trường khác. Mặc dù không nói rõ là thị trường nào, nhưng có thể hiểu đó là thị trường Đông nam Á, trong đó có Việt Nam.
4. Tập đoàn Formosa sẽ tập trung nguồn vốn (291,8tỷ đài tệ = 9,1 tỷ USD) để liên doanh với Sinopec Trung Quốc xây dựng cơ sở hóa dầu, sản xuất các loại sản phẩm nhựa. Như vậy, dự kiến ban đầu của Formosa xây dựng cơ sở lọc dầu tại Việt Nam sẽ bị đình hoãn và tiến độ đầu tư tại Hà Tĩnh Việt Nam sẽ bị chậm lại do thiếu vốn.
5. Chủ tịch Tập đoàn Foxconn Quách Đài Minh đã được Bí thư Thành ủy thành phố Trùng Khánh, ông Bạc Hy Lai (nguyên Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc) mời chào và đã quyết định đầu tư 4 tỷ USD vào Trùng Khánh…
[4] Rodolfo C. Severino, Phát biểu tại Diễn đàn An ninh Châu Á-Thái Bình Dương, Đài Loan, 30/8/2007 (Dẫn theo Tạ Minh Tuấn,Vai trò của Đài Loan đối với việc phát triển kinh tế của các thành viên ASEAN mới: Trường hợp của Việt Nam, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9, 2008).
[5] Đài Loan điều chỉnh chiến lược đầu tư vào VNhttp://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2006/12/3b9f1c64/
[7] Chính sách hướng Nam của Đài Loan xem mở rộng và phát triển kinh tế ra bên ngoài là mũi nhọn cho chiến lược phát triển kinh tế lâu dài và Đông Nam Á được coi là thị trường trọng tâm trong chính sách xuất khẩu.
[8] Phạm Quyền, Lê Minh Tâm, Hướng phát triển thị trường XNK Việt Nam tới năm 2010, NXB Thống kê, Hà Nội 1997, tr. 153.
[9] Kim ngạch XNK giữa Việt Nam - Đài Loan năm 2009,http://www.ttnn.com.vn/country/265/news/25810/kim-ngach-xnk-viet-nam-dai-loan-nam-2009.aspx(26/02/2010)
[10] Kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng năm 2010 giữa Việt Nam và Đài Loan đạt gần 7,6 tỷ USD,
[11] Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam,
http://fia.mpi.gov.vn/Default.aspx?ctl=FIAs&TabID=4&mID=237
[12] Ting-I Tsai, "Taiwan Investment Scramble," Asia Times, 25/8/2006,http://www.atimes.com/atimes/China/HH25Ad01.html
[13] Bất kỳ nền kinh tế nào phát triển cũng phải trải qua 4 giai đoạn. Giai đoạn 1: Phát triển ngành nghề sử dụng nhiều lao động như dệt may, giầy dép... Giai đoạn 2: Thu hút tài chính đi đôi với phát triển công nghiệp chế tạo nhẹ. Giai đoạn 3: Thu hút công nghệ máy móc thiết bị mới. Giai đoạn 4: Thu hút tri thức cho phát triển công nghệ thông tin và sản xuất công nghệ cao. Giới kinh doanh Đài Loan cho rằng Việt Nam đang ở giữa giai đoạn 2 và 3.
[14] Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.200 USD/năm. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Năm 2009, gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 6,4%, lên con số 5 triệu tấn. Tại Việt Nam, hiện có 79% số người sử dụng internet trong độ tuổi từ 15 đến 19. Thời gian sử dụng internet bình quân trong ngày tăng từ 22 phút (năm 2006) lên 43 phút. 66% số người số người sử dụng internet tại nhà riêng… (Theohttp://www.nhantainhanluc.com/Themes/nhantainhanluccom/Common/contents.aspx?lang=vn&tid=372&iid=3350&AspxAutoDetectCookieSupport=1)
[15] Kim ngạch XNK giữa Việt Nam - Đài Loan năm 2009.http://www.ttnn.com.vn/country/265/news/25810/kim-ngach-xnk-viet-nam-dai-loan-nam-2009.aspx(26/02/2010)
[16] Kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng năm 2010 giữa Việt Nam và Đài Loan đạt gần 7,6 tỷ USDhttp://www.ttnn.com.vn/country/265/news/29180/kim-ngach-xnk-11-thang-nam-2010-giua-viet-nam-va-dai-loan.aspx(23/12/2010)

Gửi lúc: 30:17:13 12/10/2010
Views: 5342 - Like: 0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Top