NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA CUBA TỪ 1993 ĐẾN NAY
A A+
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA CUBA TỪ 1993 ĐẾN NAY
Văn Ngọc Thành(*)- Nguyễn Thanh Tuấn (**)
(Đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 - 2009)
 
Sau 15 năm tiến hành cải cách, mở cửa với những bước đi phù hợp, Cuba đã hoàn thành nhiệm vụ “Cứu Tổ quốc, cách mạng và xã hội chủ nghĩa”, đưa đất nước thoát ra khỏi “Thời kì đặc biệt”. Kinh tế - xã hội Cuba đã có nhiều khởi sắc với nhiều thành tựu quan trọng, giúp cho CNXH tiếp tục đứng vững “nơi đầu sóng, ngọn gió”(a). Bài viết nhỏ này chỉ dừng lại ở viê%3ḅc nêu lên những thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế – xã hô%3ḅi mà Cuba đã đạt được trong thời gian qua.
1. Về kinh tế
            Thành tự lớn đầu tiên phải kể đến của cải cách kinh tế ở Cuba là sựchuyển đổi kinh tế vĩ mô. Nếu như trong những năm 1989-1993, GDP của Cuba giảm 35%, kinh tế tăng trưởng ở con số -14,9% năm 1993, thì đến năm 1994, nước này đã chặn đứng được sự suy thoái trong sản xuất, “đạt mức tăng trưởng 0,7%”(1), “khối lượng giá trị xuất khẩu đạt 2,4 tỉ USD, nghĩa là trở lại mức bình quân như năm 1992. Nền tài chính quốc gia bắt đầu được lành mạnh hóa, mức thâm hụt ngân sách giảm 40% so với dự kiến. Luồng vốn đầu tư nước ngoài vào đạt 1,5 tỉ USD. Hàng chục đối tác nước ngoài đã thảo luận hơn 200 dự án liên doanh. Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc giúp Cuba 10 dự án phát triển và một số dự án về đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh với tổng số vốn 7 triệu USD”(2). Năm 1995 đạt 2,5%, năm 1996 vươn lên 7,8%. Năm 1998, tuy mức tăng trưởng GDP chỉ đạt con số khiêm tốn là 1,2%, nhưng đó là bằng chứng cho thấy nền kinh tế Cuba vẫn giữ được khả năng phục hồi trong điều kiện hết sức bất lợi do hậu quả của chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Trong 2 năm, 2000 và 2001, trong khi kinh tế thế giới suy giảm, kinh tế Mĩ Latinh suy thoái nặng nề do tác động của thảm họa khủng bố nước Mỹ, thì “Cuba là nước duy nhất trong khu vực duy trì được sự ổn định trong điều kiện bị bao vây, cấm vận và đạt mức tăng trưởng bình quân 4%”(3). Năm 2005, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là 11,8%. Năm 2006 đạt 12,5% - mức cao nhất trong lịch sử cách mạng và cũng là cao nhất trong khu vực. Trong 6 năm, từ năm 2001 đến 2006, tốc độ tăng trưởng trung bình của Cuba là 6,3%, trong đó thời kì 2001- 2003 là 2,8%; thời kì 2004 - 2006 là 9,9%. Năm 2007, đạt 7,5%, không đạt kế hoạch đề ra là 10% nhưng mức tăng trưởng kinh tế của Cuba vẫn xếp thứ 5 trong số 33 nước theo đánh giá của Uỷ ban kinh tế Mĩ Latinh và Caribe (CEPAL) và Liên Hợp Quốc. Có thể thấy sự tăng trưởng kinh tế của Cuba qua bảng sau:
Bảng 1: Tỉ lệ tăng GDP hàng năm (Đơn vị: %)

Nguồn: 2001 - 2005- ONE: Anuario Estadístico de Cuba, 2005-2006- Ministerio de Economía y Planificación: Informe sobre los resultados económicos y sociales del 2006 a la Asamblea Nacional del poder Popular(4).

 

 

Theo tiến trình của cuô%3ḅc cải cách, hình thức sở hữu cũng được chuyển đổi dần. Trước đây, sở hữu công cộng bao trùm toàn bộ nền kinh tế Cuba. Nhưng sau 15 năm cải cách, mở cửa, các hình thức sở hữu đã có những thay đổi sâu sắc. Nền kinh tế Cuba đã có sự kết hợp ở mức độ khác nhau giữa sở hữu tư nhân và sở hữu có vốn nước ngoài với công hữu làm chủ đạo. Năm 1999, với việc thành lập hơn 4000 UBPC trên cơ sở phân chia lại đất đai của gần 400 nông trường quốc doanh, “Nhà nước chỉ còn quản lí 33% đất đai nông nghiệp so với 75% trước đây”(5). Khu vực kinh tế tư nhân bắt đầu xuất hiện từ năm 1993, đã nhanh chóng trở thành động lực của nền kinh tế Cuba. Năm 1997, khu vực kinh tế Nhà nước chỉ “chiếm 15,8% số việc làm mới trong khi đó, khu vực kinh tế hỗn hợp lại chiếm tới 32% số việc làm mới”(6). Chính phủ Cuba đã mở cửa cho nước ngoài đầu tư ở hầu hết các khu vực của nền kinh tế, chỉ trừ giáo dục, y tế và quốc phòng. Tính đến năm 1998, Cuba có khoảng “332 hiệp hội kinh tế đang hoạt động bằng nguồn vốn nước ngoài, khu vực tư nhân đã sử dụng trên 200000 lao động”(7).
Theo Bộ Đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh tế Cuba, năm 2003, nước này đã thực hiện 700 dự án với các tổ chức kinh tế nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đạt 250 triệu USD. Các nhà lãnh đạo Cuba khẳng định tạo mọi điều kiện để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phục vụ công cuộc phát triển kinh tế. Hiện có 340 tổ chức kinh tế nước ngoài đang triển khai dự án hợp tác với Cuba, chủ yếu là từ các nước Tây Ban Nha, Canada, Italia.
Để đảm bảo an ninh lương thực, ưu tiên số một của quốc gia, Chính phủ Cuba đã tiến hành giao đất nông nghiệp cho tư nhân canh tác nhằm tận dụng đất bỏ hoang và tăng sản lượng lương thực trong nước, giảm thiểu chi phí nhập khẩu lương thực với chi phí xấp xỉ 2 tỉ USD mỗi năm.
Những thay đổi kể trên đã đụng chạm đến những vấn đề cốt lõi của sở hữu. Những cải cách kinh tế trong 15 năm qua của Chính phủ Cuba đã cho phép đưa một cách dần dần và có trật tự các cơ chế thị trường, với sự đồng thuận xã hội trong nền kinh tế kế hoạch hóa. Cũng nhờ đó, Cuba tránh được những sai lầm ở Đông Âu do “quá tin tưởng vào kinh tế thị trường”(8).
Song song với sự thay đổi về chế độ sở hữu, cơ chế quản lí cũng từng bước trở nên linh hoạt và phù hợp với các quy luật kinh tế hơn. Việc mở chợ nông nghiệp, mở mang ngành kinh tế cá thể, thực chất là sự chấp nhận cơ chế thị trường ở một chừng mực nhất định.
Cơ cấu nền kinh tế cũng có những chuyển đổi quan trọng.Cơ cấu nền kinh tế tập trung hóa của Cuba đã chuyển biến trong 30 năm kể từ sau ngày cách mạng thành công. Nhưng những chuyển biến đó bị giới hạn bởi mối quan hệ kinh tế, thương mại với Hội đồng tương trợ kinh tế nên chưa đủ. Trong tiến trình cải cách kinh tế 15 năm qua, mô hình kinh tế một thành phần đã bị phá vỡ cơ bản. Cơ cấu kinh tế chuyển từ nhất dạng đến đa dạng hóa. Một số ngành nghề mới xuất hiện như công nghiệp du lịch, công nghệ sinh học và khai thác dầu khí đã phát triển nhanh chóng và thể hiện tính vượt trội hơn hẳn so với các ngành nghề truyền thống.
Du lịch: Từ năm 1994, tổng doanh thu của ngành du lịch đã vượt tổng thu nhập của ngành mía đường, từng là nguồn cung cấp ngoại tệ quan trọng nhất của Cuba trước đây. Trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2000, “số du khách tới Cuba tăng 6 lần, từ vị trí thứ 25 lên hành thứ 9 ở Mĩ Latinh. Thu nhập từ du lịch tăng hơn 11 lần, từ mức chiếm 4% lên 45% tổng nguồn thu ngân sách”(9). Hiện nay, du lịch đã trở thành ngành kinh tế mạnh nhất của Cuba, đem lại nhiều ngoại tệ nhất cho đất nước. Năm 2002, Cuba đón gần 1,8 triệu khách du lịch, doanh thu đạt hơn 1,8 tỉ USD. Năm 2006, lượng du khách tới Cuba là 2,32 triệu người với doanh thu trên 2 tỉ USD.
Để phát triển tiềm năng du lịch quốc gia, Chính phủ Cuba thực hiện kế hoạch thúc đẩy các hình thức du lịch tắm nắng, tắm biển, kết hợp với du lịch sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu của phần lớn du khách cũng như tìm cách mở rộng nguồn khách du lịch. Hiện có 90% du khách đến Cuba là từ Mỹ, Mexico, Đức, Italia, Pháp, Tây Ban Nha v.v… Cuba đang xác định phương hướng phát triển mới nhằm khai thác thị trường du lịch đầy tiềm năng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc. Năm 2004, Trung Quốc và Cuba đã kí biên bản ghi nhớ, trong đó cộng nhận Cuba là nước đầu tiên ở Tây bán cầu được Chính phủ Trung Quốc cho hưởng quy chế “điểm đến du lịch”. Với quy chế này, người dân Trung Quốc được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện đến Cuba du lịch.
Nhờ định hướng phát triển du lịch đúng đắn, kết hợp điều kiện địa lí tự nhiên với nhiều bãi biển, khu nghỉ mát đẹp, thơ mộng, nhiều địa danh được UNESCO công nhận là di sản thế giới và một nền văn hóa dân tộc phong phú, đặc sắc, người dân cởi mở, mến khách, từ lâu Cuba đã trở thành một điểm đến lí tưởng, hấp dẫn đối với du khách nước ngoài. Kết quả cuộc thăm dò về du lịch năm 2004 do hãng Thế giới du lịch, một công ty du lịch quốc tế nổi tiếng tiến hành cho thấy Cuba được xếp thứ bảy sau Anh, Pháp, Italia, Mexico, Argentina và Anh trong danh sách 57 nước có nền “công nghiệp không khói” tốt nhất thế giới. Theo đó, Cuba đứng đầu thế giới về đảo và khách sạn; thứ ba về bãi biển và thứ tám về thành phố. Cuba được đánh giá là đảo du lịch tốt nhất thế giới, đứng thứ hai là đảo Madayra của Bồ Đào Nha, tiếp theo là Sisilia của Italia, Laepanhola của Dominica. Trong khi đó, thành phố La Habana chiếm vị trí thứ tám trong danh sách các thành phố tốt nhất thế giới về du lịch và đứng thứ hai ở châu Mỹ, ngang với Buenos Airet (Argentina).
Công nghệ sinh học: Với hàng trăm sản phẩm phục vụ sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và bảo vệ môi trường có hiệu quả cao, công nghệ sinh học đã trở thành một trong những ngành kinh tế và khoa học mũi nhọn của Cuba.
Nhờ áp dụng công nghệ gen, các trung tâm sinh học Cuba đã nghiên cứu và sản xuất thành công các loại dược phẩm công nghệ cao như vắcxin chống viêm màng não Nhật Bản B và C; vắcxin phòng viêm gan siêu vi B; Interferon, Estreptokinasa (chữa nhồi máu cơ tim); Hebermin (kem chữa bỏng và làm lành vết thương); PPG (thuốc giảm Cholesterol trong máu); EPO-Erytropoyetine (chữa thiếu máu); các dụng cụ và thuốc thử để chẩn đoán bệnh. Cuba đang chuẩn bị đưa ra thị trường các loại vắcxin chống ung thư, vắcxin ngừa cúm ở trẻ em, các loại Interferon Alpha R nước khô và không chứa albumin, Estreptokinasa khô không chứa albumin v.v… Cuba hiện đang nghiên cứu và đã đạt đuợc những bước tiến quan trọng trong việc điều chế vắcxin ngăn ngừa căn bệnh thế kỉ AIDS, vắcxin ngừa bệnh sốt xuất huyết, vắcxin phòng bệnh tả v.v…
Nổi bật trong các sản phẩm thuốc thú y do các trung tâm công nghệ sinh học Cuba nghiên cứu và sản xuất là GAVAC (vắcxin phòng chống bọ ve ở bò). Bằng phương pháp biến đổi gen, Trung tâm kĩ nghệ di truyền và công nghệ sinh học Cuba đã tạo được những giống cây và gia súc có năng suất cao, kháng bệnh và sinh trưởng nhanh như mía, thuốc lá, khoai tây, lúa, cá rô phi, tôm.
Cuba có hàng chục sản phẩm sinh học được cấp bằng sáng chế và đăng kí bản quyền trong và ngoài nước như vắcxin phòng viêm não Nhật Bản B và C, Estreptokinasa tái tổ hợp gen, vắcxin chống ung thư. Trong các sản phẩm đang chờ cấp bản quyền, có thuốc điều trị viêm khớp ở thanh niên, thuốc điều trị bệnh lao kháng thuốc, thuốc trị các bệnh di ứng, thuốc trị ung thư phổi v.v… Các sản phẩm công nghệ di truyền của Cuba rất có uy tín và được ưa chuộng tại hơn 60 nước trên thế giới. Giá trị xuất khẩu các sản phẩm này đã đạt khoảng trên 1 tỉ USD mỗi năm và không ngừng tăng lên.
Cuba cũng đang thực hiện liên doanh sản xuất hoặc chuyển giao công nghệ với Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Malaixia, Nga, Angieri, Brazil, Việt Nam v.v… Nhiều tập đoàn dược phẩm hàng đầu thế giới đã mua bản quyền của Cuba để sản xuất một số loại vắcxin và dược phẩm khác.
Đã có sự thay đổi quan trọng diễn ra trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Cuba trong 15 năm qua. Một số mặt hàng xuất khẩu truyền thống, mang lại lợi nhuận cao như đường, chanh, cà phê, xì gà v.v… đã không còn thích hợp nữa, chúng đã được thay thế bằng các mặt hàng khác có giá trị cao hơn như niken, thuốc lá, các sản phẩm y tế v.v…
Sự gia tăng nhanh chóng của ngành dịch vụ đã làm thay đổi cơ cấu ngành xuất khẩu của Cuba. Dịch vụ đã thay thế cho hàng hóa và là ngành mang lại lợi nhuận lớn cho nền kinh tế. Nếu như vào thời điểm năm 1989, xuất khẩu dịch vụ của Cuba mới chỉ đạt ở mức độ khiêm tốn 10% thì đến năm 2003, con số này đã lên tới 64% và chiếm 70% vào năm 2005. Ngược lại, tỉ trọng xuất khẩu hàng hóa lại giảm nhanh chóng từ 90% năm 1989 xuống còn 36% năm 2003 và 30% năm 2005. Điều đó chứng tỏ rằng, kinh tế Cuba đang chuyển dịch theo hướng hiện đại hóa.
Bảng 2: Cơ cấu ngành xuất khẩu của Cuba
Nguồn: ECLAC: Cuba. Evolucíon Economíca en el 2005 y Prespectivas para el 2006(10).
            Xuất khẩu dịch vụ của Cuba đã gia tăng đáng kể từ những năm tiến hành cải cách. Từ 2000 đến 2006, giá trị xuất khẩu dịch vụ của Cuba đã tăng từ 2,64 tỉ USD lên 7,28 tỉ USD, tăng 2,75 lần, gồm hỗ trợ y tế, du lịch, công nghệ sinh học.
Ngành ngoại thương Cuba cũng có nhiều khởi sắc. Trong những năm 1990-1993, thị trường xuất khẩu số 1 của Cuba là Liên Xô đã không còn, làm cho giá trị trao đổi thương mại của nước này ở con số -77%. Đến năm 2004, con số này vượt trên 7 tỉ USD, “mức cao nhất kể từ năm 1991 trước khi Cuba bước vào “Thời kì đặc biệt”(12). Năm 2006, kim ngạch thương mại của Cuba “đạt 12,8 tỉ USD, trong đó xuất khẩu chiếm 2,76 tỉ USD và nhập khẩu chiếm 9,42 tỉ USD”(13). Các bạn hàng xuất khẩu chính của Cuba là: Hà Lan (25,8%), Canada (21,1%), Trung Quốc (10%), Tây Ban Nha (6,8%); các bạn hàng nhập khẩu chính: Trung Quốc (14,5%), Tây Ban Nha (13,7%), Canada (8,4%), Mỹ (8,3%), Đức (7,2%), Brazil (5,6%), Italia (5,6%), Mexico (5,1%), Nhật Bản (4%).
Bảng 3: Xuất khẩu dịch vụ (Đơn vị: Triê%3ḅu USD)
Nguồn: 2000- 2005- ECLAC: Cuba. Evolucíon Economíca en el 2005 y Perspectivas para el 2006. 2006- ECLAC: Blance preliminar de las Economías de América Latina y Caribe, 2006(11).
Trao đổi ngoại thương của Cuba với các nước trên thế giới tính, đến thời điểm tháng 10/2006, tăng 27% so với cùng kì năm 2005. Doanh số bán các mặt hàng xuất khẩu của Cuba không ngừng tăng: “đường và niken tăng 15%, sản phẩm công nghệ sinh học và thuốc chữa bệnh tăng 23%”(14). Trao đổi thương mại của Cuba với các nước Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ chiếm 45% tổng giá trị thương mại của nước này; với các nước châu Âu chiếm 31%; các nước châu Á và Trung Đông chiếm 21%.
Hai đối tác chiến lược được Chính phủ Cuba ưu tiên phát triển mối quan hệ là Trung Quốc và Venezuela. Giá trị trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và Cuba năm 2006 đạt 1,79 tỉ USD, tăng 105,4% so với năm 2005. Kim ngạch thương mại giữa Cuba và Venezuela tăng từ 1,4 tỉ USD năm 2004 lên 2,6 tỉ USD năm 2006. Venezuela và Trung Quốc hiện chiếm 35% cán cân thương mại của Cuba. Cuba nhập của Venezuela xăng, dầu, các mặt hàng tổng hợp v.v… Trong khi đó, các mặt hàng chủ yếu nhập từ Trung Quốc là đồ gia dụng, các phương tiện giao thông vận tải. Trung Quốc nhập đường mía, niken của Cuba, còn Venezuela nhập khẩu thuốc chữa bệnh, dịch vụ y tế và lao động kĩ thuật.
Theo thống kê, đến cuối năm 2007, hai nước có hơn 300 dự án hợp tác. Ngân hàng Venezuela đã tài trợ cho hơn 58 dự án đang triển khai tại Cuba, chưa kể việc trợ giúp hàng chục chương trình phát triển nông nghiệp của Cuba trong năm 2007. Venezuela cũng tài trợ 700 triệu USD cho dự án hiện đại hóa nhà máy niken tại tỉnh miền Đông Holguin. Ngoài ra, hai nước còn hợp tác liên doanh trong ngành viễn thông, nông - ngư nghiệp, đóng tàu. Mặc dù quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước không thông báo công khai, nhưng nguyên Chủ tịch Fidel Castro cho biết: “kim ngạch thương mại giữa La Habana và Carasas năm 2007 vào khoảng 7 tỉ USD”(15).
            Ngay từ đầu, Fidel Castro và Hugo Chavez đã quyết tâm thúc đẩy mối quan hệ song phương sâu rộng và có tầm ảnh hưởng khu vực, vượt ngoài mối quan hệ dầu khí và bác sĩ thông thường. Về phần mình, Chủ tịch Raul rất quan tâm tới việc mối quan hệ đồng minh đó phải vượt lên trên cả mối quan hệ dựa trên tình cảm cá nhân, cụ thể bằng việc kí kết những hiệp định hợp tác mang tính chất bền vững và có cơ sở pháp lí. Điều này sẽ khiến quan hệ song phương được xây dựng một cách bền chặt hơn.
Đến năm 2007, “Cuba có quan hệ thương mại với hơn 3000 doanh nghiệp thuộc 130 nước trên thế giới, thu hút vốn đầu tư từ 50 nước, kí hiệp định xúc tiến và bảo vệ đầu tư với hơn 60 quốc gia”(16).
2. Về xã hội
Song song với cải cách kinh tế, lĩnh vực xã hội cũng được Đảng, Chính phủ Cuba chú trọng phát triển. Bên cạnh những nỗ lực trong việc đảm bảo những thành quả mà cuộc cách mạng đem lại, Chính phủ Cuba còn thực thi những chính sách, biện pháp mới nhằm ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Giáo dục và y tế:Ngành giáo dục Cuba đã đạt được những thành tựu đáng kể. Từ những năm 50 đến năm 1999, số trường đại học đã “tăng từ 3 trường lên 47 trường, tất cả đều là trường công”(17). Tỉ lệ trẻ em đến trường đạt 100%, so với những năm trước cách mạng, tỉ lệ này chưa đạt 50%. Riêng đối với trẻ em tàn tật, Cuba có tới 426 trường đặc biệt dành cho 57000 học sinh. Từ chỗ 60% dân số mù chữ trước cách mạng, đến nay, người dân Cuba đã đạt trình độ phổ cập trung học phổ thông. Mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, Cuba vẫn tích cực hợp tác với các nước thuộc “thế giới thứ ba” về giáo dục. Cuba đã đón tiếp, đào tạo, miễn phí cho hơn 25000 sinh viên ở châu Âu, châu Phi, Mĩ Latinh, trong đó, riêng Mĩ Latinh có tới 21000 sinh viên đang theo học. Tổ chức Giáo dục khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đánh giá Cuba là một trong những nước có nền giáo dục phát triển nhất thế giới và đã trao giải thưởng Vua Xê Đông cho Cuba vào năm 2002.
Ngày nay, nói đến Cuba, người ta hình dung đó là một “cường quốc y tế”, từ chỗ chỉ có 6000 bác sĩ được phân bổ không đều, một nửa trong số này đã bỏ chạy ra nước ngoài ngay sau khi cách mạng thành công. Đến nay, số lượng bác sĩ ở Cuba là 70000 người và 250000 y tá, kĩ thuật viên, hộ lí. Như vậy, Cuba là nước có tỉ lệ bác sĩ tính theo đầu người cao nhất thế giới với tỉ lệ 1/50.
Khi cách mạng thành công, cả nước chỉ có một trường y ở La Habana, đào tạo mỗi năm 300 bác sĩ với rất ít chuyên ngành. Ngày nay, Cuba đã thành lập 24 khoa y, với các phân hiệu ở khắp các tỉnh. Chương trình “thầy thuốc gia đình” ra đời từ năm 1984 ngày càng phát huy hiệu quả, góp phần to lớn vào việc nâng cao sức khỏe cộng đồng. Tỉ lệ trẻ em chết yểu đã giảm từ 60/1000 năm 1958 xuống còn 4,9/1000 năm 2006, con số này có thể sánh ngang với các nước phát triển nhất. Tuổi thọ trung bình của người dân Cuba đã tăng từ 60 lên 76 tuổi. Tổ chức y tế Liên Mỹ thừa nhận Cuba là nước thực hiện chương trình miễn dịch tốt nhất thế giới. Nhờ đó, các bệnh bại liệt, uốn ván, sởi, thương hàn, lao, đậu mùa, viêm màng não và viêm gan B đã bị loại trừ. Hiện nay, Cuba là nước duy nhất trên thế giới đã thanh toán được bệnh quai bị. Đến nay, Cuba cũng đã sản xuất các loại vắcxin chống bệnh xoắn trùng móc câu, viêm màng não B và C, ung thư. Vắcxin phòng bệnh viêm màng não B của Cuba chiếm vị trí nổi bật trên thị trường dược phẩm thế giới với số lượng khoảng 40 triệu liều được bán tại 12 nước và là dược phẩm đầu tiên của Cuba thâm nhập thị trường Mỹ.
Điều đáng chú ý là Cuba vẫn thường xuyên cử các đoàn y tế sang giúp đỡ nhiều nước ở các lục địa khác nhau. Tính đến năm 2006, Cuba hiện có gần 300000 nhân viên y tế đang làm việc, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân 69 nước trên thế giới, trong đó có các nước Mĩ Latinh. Chương trình “phẫu thuật diệu kì” do Cuba khởi xướng đã đem lại ánh sáng cho hơn 400000 dân nghèo ở nhiều nước trên thế giới.
Cùng với y tế và giáo dục, công tác an sinh xã hội cũng rất được chính phủ Cuba chú trọng. Trên địa bàn toàn quốc, “85% hộ gia đình là chủ sở hữu của ngôi nhà đang ở; 95% lãnh thổ được điện khí hóa; 95,3% dân số được dùng nước sạch; tỉ lệ người nhiễm HIV/AIDS là 0,03%, tỉ lệ thấp nhất thế giới (so với Mỹ là 0,6%)(18). Tỉ lệ người thất nghiệp ở Cuba đã giảm 4,15 lần, từ mức 7,9% năm 1995 xuống còn 1,9% năm 2005, mức thấp nhất của thế giới (Xem Bảng 4).
Bảng 4: Tỉ lệ thất nghiệp của Cuba (Đơn vị: %)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Nguồn: Ministerio de Economía y Planificación: Informe sobre los resultados económicos y sociales ano 2006 a la Asamblea Nacional del Poder Popular(19).
3. Mô%3ḅt số nhâ%3ḅn xét
- Chính sách kinh tế mới ra đời từ năm 1993, với những cải cách thương mại được thông qua (thị trường nông nghiệp tự do, hợp pháp hóa việc thanh toán bằng đồng Đôla Mỹ, phát triển các công ty hợp doanh v.v…) đã cho phép kinh tế Cuba bắt đầu tăng trưởng trở lại vào cuối thập kỉ. Sự tăng trưởng của kinh tế Cuba là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, Cuba có chỗ dựa khá vững chắc từ chính quyền của Tổng thống Hugo Chavez. Theo thỏa thuận kí kết vào tháng 12/2004 giữa hai nước Cuba và Venezuela, Cuba sẽ gửi 30000 bác sĩ sang làm việc tại nước này. Đổi lại, Vênêzuêla sẽ cung cấp 53000 thùng dầu mỗi ngày cho Cuba với giá ưu đãi. Lượng dầu mỏ quý giá từ Venezuela đã giúp Cuba giảm thiểu gánh nặng nhập khẩu nhiên liệu trong bối cảnh giá dầu trên thế giới biến động theo chiều hướng bất lợi cho nước này. Hơn nữa, sự ủng hộ của Hugo Chavez còn có tác dụng “đẩy lùi nguy cơ lật đổ chế độ Cuba sau khi Chủ tịch Fidel Castro bàn giao quyền lực”(20).Trong tương lai gần, Chavez vẫn là một biến cố bên ngoài thiết yếu tác động đến triển vọng đối với chế độ kế nhiệm của Cuba. Mặc dù sự hỗ trợ của Venezuela ít hơn mức 5 - 6 tỉ USD trong các khoản trợ cấp hàng năm do khối Xô viết cung cấp trong suốt những năm 70, 80 của thế kỉ XX, nhưng nó là thiết yếu đối với nền kinh tế Cuba. Như vậy, Caracas đã và đang là đồng minh mang tính chiến lược đối với sự ổn định và phát triển của La Habana và La Habana cũng nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt trong việc duy trì mối quan hệ này.
Với nguồn tín dụng lãi suất thấp và thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng cho các sản phẩm công nghệ sinh học và công nghệ khai khoáng của Cuba, Trung Quốc cũng là nhân tố đóng vai trò đáng kể đối với quá trình phục hồi của nền kinh tế Cuba.
Thứ hai, xu hướng gia tăng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Cuba là niken và mía đường. Từ năm 2005, giá đường trên thế giới có xu hướng tăng trở lại do sản lượng đường thấp ở Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Thái Lan và Brazil. Tín hiệu đáng mừng này đã thúc đẩy Chính phủ Cuba khôi phục lại ngành kinh tế truyền thống nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Cùng với mía đường, giá niken trên thị trường thế giới cũng đang diễn tiến theo chiều hướng có lợi cho Cuba. Từ đầu năm 2006, giá niken đã tăng tới 70%, từ 12000 USD - 13000 USD/tấn lên xấp xỉ 30000 USD/ tấn, nằm ngoài dự đoán của nhiều nhà phân tích. Nguồn cung cấp hạn hẹp, nhu cầu sử dụng niken của Trung Quốc tăng nhanh (cần khoảng 10 triệu tấn vào năm 2010) để sản xuất thép không gỉ cùng với nhân tố đầu cơ đã đưa giá niken tăng phi mã. Đây là yếu tố hết sức thuận lợi để Cuba mở rộng sản xuất niken phục vụ xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia với doanh thu trên 1 tỉ USD/ năm.
Thứ ba, Sự phát triển tích cực của các ngành trong chiến lược phát triển được Chính phủ Cuba đề ra từ những năm đầu tiến hành cải cách kinh tế, xã hội là du lịch và công nghệ sinh học. Công nghiệp mía đường, động lực phát triển nền kinh tế của Cuba trước đây, hiện tại chỉ còn đóng vai trò thứ yếu. Du lịch, vốn được coi là chiến lược tạm thời trong “Thời kì đặc biệt”, nay đã trở thành khu vực tăng trưởng gốc, mang tính chiến lược đối với kinh tế Cuba, với doanh thu trên 2 tỉ USD mỗi năm. Cùng với du lịch, công nghệ sinh học cũng là hướng ưu tiên phát triển của Cuba, nhằm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, với doanh thu đạt trên 1 tỉ USD mỗi năm. Nguồn thu đáng kể từ du lịch và công nghệ sinh học được Chính phủ Cuba sử dụng vào việc nhập khẩu lương thực và an sinh xã hội. 
Thứ tư, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế mới ở Cuba “không gây ra sự mất bình đẳng kinh khủng do một số ít tỉ phú nắm quyền kiểm soát tài sản và nguồn lực công cộng”(21). Ngoài ra, Chính phủ Cuba còn nắm giữ phần lớn cổ phiếu và nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, hoàn toàn khác với các nước Đông Âu để cho Mỹ và Tây Âu thâu tóm gần nhu toàn bộ các lĩnh vực sản xuất, tài chính, phương tiện thông tin đại chúng và thương mại.
Điều đáng chú ý nữa là ở Cuba không hề xảy ra tình trạng ồ ạt chuyển ra nước ngoài tài sản, các khoản lợi tức. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế liên doanh ở Cuba “không tạo ra các nghiệp đoàn tội phạm có tổ chức, nắm vai trò quan trong trong bầu cử giống như ở Bungari, Balan, Rumani, Anbani và các nền dân chủ tư sản khác”(22).
- Cải cách kinh tế là yêu cầu mang tính tất yếu đối với tiến trình xã hội chủ nghĩa. Nguyên Chủ tịch Fidel Castro cho rằng: “Cuba không thể sống trong cái tủ bằng pha lê…, nhiệm vụ của chúng ta là phải chuẩn bị để sử dụng mọi điều kiện tích cực và tiếp xúc với thế giới chứ không ẩn mình trong tu viện”(23). Sau 15 năm tiến hành cải cách, kinh tế Cuba đã từng bước phục hồi và phát triển, xã hội ổn định và hài hòa, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên đáng kể. Từ thực tế đó, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm thành công của Cuba như sau:
Một là, kiên trì cải cách và mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa bằng con đường riêng của mình. Cuba đã tự đúc rút cho mình những kinh nghiệm, bài học từ việc sao chép mô hình kinh tế của Liên Xô đã từng tồn tại ở Cuba nhiều năm sau cách mạng thành công cũng như những vấn đề đã nảy sinh trong việc khuếch trương chủ nghĩa tự do mới ở một số nước thuộc “Thế giới thứ ba”. Đồng thời, những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc và Việt Nam cũng rất được quan tâm nghiên cứu. Đối với vấn đề thị trường, Cuba có thái độ và phương pháp riêng, đó là: “có thể áp dụng một số hình thức thị trường nhưng không được tuân theo một cách mù quáng những quy luật của thị trường”(24).
Hai là, Cải cách kinh tế ở Cuba luôn gắn liền với việc ổn định xã hội. Trong tình hình kinh tế khó khăn nhất, Chính phủ Cuba vẫn hứa với nhân dân rằng: “quyết không để cho một ai phải lang thang ngoài đường kiếm sống”(25). Trong quá trình cải cách kinh tế, Cuba vẫn đảm bảo chế độ miễn phí toàn dân đối với giáo dục, y tế và bảo hiểm xã hội. Việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước đã làm cho nhiều công nhân mất việc. Để đảm bảo cuộc sống cho họ, Chính phủ quy định: “những công nhân mất việc được hưởng 60% lương gốc 4 năm và khi họ kiếm được việc làm thì mức lương mới không được thấp hơn 80% lương gốc của họ trước đây”(26). Có thể coi đây là một kì tích, một nét rất độc đáo trong quá trình cải cách kinh tế của Cộng hòa Cuba.
Ba là, Cuba tiến hành cải cách kinh tế một cách thận trọng và có trật tự. Hoàn cảnh và điều kiện quốc tế cũng như trong nước khó khăn và phức tạp hơn nhiều so với các nước xã hội chủ nghĩa khác. Vì vậy, trong quá trình cải cách kinh tế, Cuba phải tiến hành những bước đi rất cẩn trọng. Trong hoàn cảnh Mỹ và các thế lực thù địch điên cuồng chống phá thì an ninh quốc gia phải được đặt lên hàng đầu, không để cho kẻ thù tận dụng bất cứ kẽ hở nào. Vì thế, Chính phủ Cuba cũng hết sức thận trọng trong những biện pháp mạo hiểm có thể ảnh hưởng đến sự ổn định quốc gia. Đó cũng là lí do giải thích tại sao mức độ sâu rộng cũng như quy mô của cải cách kinh tế ở Cuba không đạt được như Việt Nam và Trung Quốc.
- Với quá trình cải cách kinh tế, Chính phủ Cuba đã thành công trong việc “Cứu tổ quốc, cách mạng và chủ nghĩa xã hội”, đưa đất nước dần thoát ra khỏi “Thời kì đặc biệt”. Song hiện nay, Cuba vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức, không chỉ do Mỹ cấm vận, mà còn do những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, đòi hỏi phải giải quyết để vững bước tiến vào thế kỉ XXI.
Thách thức lớn nhất hiện nay của nền kinh tế Cuba là làm sao tránh dựa quá nhiều vào Venezuela giống như Liên Xô trước đây. Ông Daniel Erikson thuộc Trung tâm đối thoại Liên Mỹ nhận định: “kinh tế Cuba tăng trưởng nhanh và nhanh hơn nhiều nước Mĩ Latinh khác…là nhờ vào giá dầu ưu đãi đang được Venezuela cung cấp với khoản trợ giá 2 tỉ USD”(27). Nếu những khoản trợ cấp này chấm dứt, nền kinh tế Cuba trong vài tuần sẽ rơi vào tình trạng suy thoái sâu sắc, kèm theo việc thiếu các sản phẩm hàng tiêu dùng và mất điện v.v… Để phát triển ổn định, bền vững, Cuba cần cơ cấu lại nền kinh tế để tận dụng được nguồn nhân lực đã đem lại nhiều lợi ích trên các lĩnh vực y tế, giáo dục mà nước này hiện đang có ưu thế nổi trội so với các nền kinh tế khác trong khu vực.
Với “Nghị quyết 80” của Ngân hàng Trung ương Cuba ngày 25/10/2004, trên toàn lãnh thổ Cuba sẽ chấm dứt việc lưu hành đồng Đôla Mỹ, thay vào đó là đồng Peso chuyển đổi (CUC). Đây là biện pháp mà Chính phủ Cuba buộc phải tiến hành nhằm chống lại sức ép của Chính phủ Mỹ ngăn cản không cho nước này gửi vào ngân hàng nước ngoài đồng USD để thanh toán các giao dịch thương mại quốc tế. Trong thời gian trước mắt, việc cấm lưu hành đồng USD sẽ giúp Chính phủ Cuba có toàn quyền trong chính sách tiền tệ của mình, nhưng về lâu dài “sẽ có tác động tiêu cực đối với nhân dân và có thể đối với cả Chính phủ Cuba”(28). Hệ thống tiền tệ hai giá đã bộc lộ nhiều bất cập. Trong khi mức lương của cán bộ, công nhân viên Nhà nước được trả bằng đồng Peso thì hàng tiêu dùng trong những “bách hóa đặc biệt” lại được bán bằng đồng Peso chuyển đổi. Với mức thu nhập trung bình khoảng 20 USD/tháng như hiện nay, người dân Cuba sẽ không mua được gì nhiều cho cuộc sống của mình. Và như vậy, việc cải cách tiền lương của Chính phủ sẽ mất đi phần nào ý nghĩa của nó. Mặt khác, đồng Peso chuyển đổi có giá trị 1 USD ở Cuba nhưng không có giá trị trên thị trường thế giới. Vì thế, nó không thể là phương tiện thanh toán thương mại quốc tế.
Hơn nữa, với mức thuế 10% đánh vào mối hoạt động giao dịch liên quan đến đồng USD thì “người dân Cuba sẽ có nhiều dè dặt khi quy đổi đồng tiền của họ. Một số người dân sẽ không quy đổi tất cả USD của họ. Chợ đen sẽ quay trở lại. Nhiều điều sẽ trở nên phức tạp và ngày càng gay go hơn”(29).
Hiện nay, loại bỏ hệ thống tiền tệ hai giá là việc làm cần thiết để phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Để trả lại cho đồng Peso giá trị của nó, Chính phủ Cuba phải phát huy được hiệu quả nền nền kinh tế.
Tiềm năng lớn về du lịch đã biến ngành này trở thành ngành kinh tế đem lại hiệu quả nhất của Cuba từ những năm 90 trở lại đây, với doanh thu hàng tỉ Đôla mỗi năm. Tuy nhiên, cùng với thời gian, du lịch cũng gây ra những hiện tượng “méo mó” trong kinh tế: “lương của những người lao động ít hoặc không được đào tạo lại cao hơn rất nhiều so với lương của các nhà khoa học được đào tạo chuyên sâu, bác sĩ, lao động chuyên nghiệp”(30). Đồng thời, du lịch cũng làm nảy sinh các tệ nạn xã hội và các “hình thức vụng trộm phi sản xuất với thu nhập bất chính cao”(31).
Việc đầu tư ở cấp độ lớn và dài hạn của Chính phủ cho cơ sở hạ tầng, du lịch, khách sạn, nhà hàng, trang thiết bị nhập khẩu làm cho dự trữ nông nghiệp bị đổi hướng: sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi, nhất là sản xuất lương thực và thực phẩm giảm sút đáng kể, không đủ cung cấp cho nhân dân. Cuba trở nên lệ thuộc nước ngoài về lương thực. Trong khi du lịch đem về ngoại tệ mạnh, Cuba cũng bỏ ra hàng tỉ Đôla để nhập khẩu lương thực, thực phẩm từ bên ngoài.
Y tế cộng đồng của Cuba cũng bị tác động do chính sách “xuất khẩu bác sĩ” để đổi lấy dầu mỏ từ Venezuela. Mô hình “bác sĩ gia đình” bị ảnh hưởng mạnh. Với chính sách thu hút “du lịch chữa bệnh”, vô hình trung, nền y tế Cuba đang xuất hiện hai hệ thống với tốc độ khác nhau: dịch vụ dành cho người nước ngoài phát triển mạnh, trong khi các cơ sở chữa bệnh cho nhân dân trong nước không được chú trong đúng mức.
Một thách thức nữa hiện nay của kinh tế Cuba là sự “mất cân đối lớn giữa một hệ thống giáo dục rất phát triển với một nền kinh tế còn chưa đủ chỗ làm phù hợp với việc phổ cập đại học cho toàn dân”(32). Nên chăng, Cuba cần điều chỉnh lại hệ thống giáo dục, tăng cường đào tạo kĩ sư quản lí và điều hành các hoạt động công nghiệp và nông nghiệp. Bởi chính những người lao động này sẽ sản xuất ra hàng loạt mặt hàng tiêu dùng cho nhân dân, giống như các nhà khoa học trong lĩnh vực giáo dục và y tế.
Dưới áp lực của cuộc “chiến tranh kinh tế” mà Mỹ tiến hành gần nửa thế kỉ qua, Cuba không có điều kiện tiếp nhận các khoản tín dụng dài hạn để phát triển kinh tế. Cuba buộc phải vay nợ ngắn hạn nước ngoài với lãi suất cao từ 16% đến 20%, vì mức độ rủi ro của nền kinh tế khá cao. Hệ quả là nợ nước ngoài gia tăng. Hơn nữa, việc đảm bảo chế độ giáo dục, y tế miễn phí đối với toàn dân trong khi vẫn phải nhập khẩu lương thực, nhiên liệu với số lượng lớn và sự suy giảm của những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như đường, cà phê, xì gà v.v… đã làm cho nền kinh tế Cuba mặc dù có tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng sự mất cân đối trong cơ cấu xuất nhập khẩu ngày càng nghiêm trọng.
            - Thành tựu của công cuộc cải cách, mở cửa đã đưa nền kinh tế - xã hội Cuba vận động theo chiều hướng ngày càng hợp lí hơn. Sự xuất hiện những yếu tố của nền kinh tế hàng hóa đã phá vỡ nền kinh tế kế hoạch truyền thống, nền kinh tế tự chủ được định hình và phát triển thay cho nền kinh tế “dựa dẫm” trước đây. Đất nước vượt ra khỏi cơn khủng hoảng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao.
            Trong số những nguyên nhân đưa đến sự thành công của cải cách kinh tế - xã hội, việc Đảng, Nhà nước Cuba nỗ lực đảm bảo ổn định xã hội trong tình hình cực kì khó khăn có thể xem là nguyên nhân quan trọng nhất, đóng vai trò nền tảng để Cuba từng bước vượt qua những thử thách của “Thời kì đặc biệt”.
            Tồn tại và thách thức là vấn đề chung của bất kì cuộc cải cách nào. Đối với Cuba, những giải pháp mang tính đồng bộ sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động hơn, hợp lí hơn, cũng từ đó những khó khăn, thách thức sẽ từng bước được tháo gỡ, tạo sự phát triển ổn định và bền vững cho nền kinh tế trên bước đường cải cách.
Tài liệu tham khảo


(*) Tiến sĩ Sử học, Khoa Lịch sử, Trường ĐHSP. Hà Nô%3ḅi.
(**) ĐH. Vinh.


(a) Về cải cách ở Cuba, có thể tham khảo thêm:
            - V.M. Figueroa Albelo y A. Averhoff Casamayor, Agriculture in Cuba and the land reform of 1993, Lan Reform, 2001-2002, Editorial Group, FAO, ISSN 0251-1894, pp. 58 – 73.
            - Mesa-Lago, Carmelo. Are Economic Reforms Propelling Cuba to the Market? Coral Gables: North-South Center, University of Miami, 1994.
            - William A. Messina, Jr. Agricultural Reform in Cuba: Implications for Agricultural Production, Markets and Trade, ASCE 1999, pp. 433-442.
            - Economic Research Service/USDA, Cuba’s Agriculture: Collapse & Economic Reform, Agricultural Outlook/October 1998. pp. 26-30
 
(1)Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo (12/1997), Đại hội V Đảng Cộng sản Cuba, tr. 10.
(2)Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1998), Mĩ la tinh - một vùng năng động, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 158.
(3)Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tư liệu (21/12/2006), Cuba vững vàng nơi đầu sóng.
(4)http//networkideas.org/idasact/jun07/Beijing.
(5)Lưu Vạn Kha, Cuba vượt lên sóng cả, Nhân dân (30/6/1999).
(6)Thông tấn xã Việt Nam, Tin kinh tế (26/2/1998), Cuba - khu vực kinh tế tư nhân tạo nhiều công ăn việc làm.
(7)Thông tấn xã Việt Nam, Tin kinh tế (26/2/1998), Cuba - khu vực kinh tế tư nhân tạo nhiều công ăn việc làm.
(8)Lưu Vạn Kha, Cuba vượt lên sóng cả, Nhân dân (30/6/1999).
(9)Anh Hồng, Cuba khai thác thế mạnh dầu mỏ, du lịch, mở rộng quan hệ kinh tế trong khu vực Mĩ la tinh, Thời báo kinh tế (30/12/2002).
(10)http//networkideas.org/idasact/jun07/Beijing.
(12)Thông tấn xã Việt Nam, Tin thế giới (26/01/2005), Cuba - giá trị trao đổi thương mại tăng.
(13)Thông Tấn Xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt (07/11/2007), Xuất khẩu của Cuba tăng 44% trong 9 tháng đầu năm 2007.
(11) http//networkideas.org/idasact/jun07/Beijing
(14) Nguyễn Anh Hồng (2006), Cuba phát huy các thế mạnh kinh tế, Thời báo Kinh tế, Tháng 1/2006.
(15)Thông tấn xã Việt Nam, Tin tham khảo thế giới (31/07/2008), Quan hệ Cuba- Venezuela dưới thời Chủ tịch Raul Castro.
(16)Ngô Chí Nguyện (2007), Sự phát triển của Cuba từ năm 1991 đến nay và quan hệ với các nước đang phát triển, Châu Mỹ ngày nay, số 6.
(17)Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo (2/7/1999), Cuba tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
(18)Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tư liệu (21/12/2006), Cuba vững vàng nơi đầu sóng.
(19) http//networkideas.org/idasact/jun07/Beijing
(20)Thông Tấn Xã Việt Nam, Tin tham khảo (18/08/2006), Yếu tố Chavez làm đảo lộn kế hoạch của Mỹ đối với Cuba.
(21)Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt (09/2007),  Cuba kiên trì cách mạng và những mâu thuẫn hiện tại.
(22)Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt (09/2007),  Cuba kiên trì cách mạng và những mâu thuẫn hiện tại.
(23)Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo (12/1997), Đại hội V Đảng Cộng sản Cuba, tr. 9.
(24)Thông tấn xã Việt Nam, tin tham khảo chủ nhật (12/01/2003), Về quá trình cải cách và mở cửa của Cuba.
(25)Thông tấn xã Việt Nam, tin tham khảo chủ nhật (12/01/2003), Về quá trình cải cách và mở cửa của Cuba.
(26)Thông tấn xã Việt Nam, tin tham khảo chủ nhật (12/01/2003), Về quá trình cải cách và mở cửa của Cuba.
(27)Thông tấn xã Việt Nam, tin thế giới (01/04/2007), Thành tựu và thách thức kinh tế Cuba.
(28)Thông tấn xã Việt Nam, tin tham khảo (26/10/2004), Cuba cấm sử dụng USD - nước cờ mới trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ.
(29)Thông tấn xã Việt Nam, tin tham khảo (26/10/2004), Cuba cấm sử dụng USD - nước cờ mới trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ.
(30) Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt (09/2007),  Cuba kiên trì cách mạng và những mâu thuẫn hiện tại.
(31) Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt (09/2007),  Cuba kiên trì cách mạng và những mâu thuẫn hiện tại
(32) Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt (09/2007),  Cuba kiên trì cách mạng và nững mâu thuẫn hiện tại.

Gửi lúc: 47:18:3 15/6/2009
Views: 8039 - Like: 0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Top