ẤN ĐỘ - 1945 - 1950
A A+
ẤN ĐỘ - 1945 - 1950

1. Cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc của nhân dân Ấn Độ (1945 - 1950).

          Thắng lợi của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Nam á đã tác động mạnh mẽ đến tình hình ở Ấn Độ. Cuộc đấu tranh chống thực dân Anh, đòi độc lập dân tộc ở  diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Ngoài giai cấp tư sản Ấn Độ, được tập hợp  trong Đảng Quốc Đại, thời kỳ này công nhân Ấn Độ đã có sự phát triển mới. Trong thời  kỳ chiến tranh, số lượng  công nhân trong toàn quốc đã tăng từ 5 triệu trước chiến tranh lên 6 triệu người. Năm 1942, Đảng Cộng sản Ấn Độ được hoạt động công khai, số lượng đảng viên tăng từ 16.00 người năm 1943 lên 53.000 người năm 1946. ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Ấn Độ  ngày càng sâu rộng trong mọi tầng lớp công nhân, nông dân, học sinh, trí thức. Bên cạnh đó phong trào nông dân cũng diễn ra sôi nổi, đặc biệt là ở Bengan, các Tỉnh Liên hiệp, miền trung lưu sông Hằng, Biha, Pengiáp và các vùng Nam ấn.

          Từ giữa năm 1945 đã diễn ra nhiều cuộc bãi công của công nhân Ấn Độ. Tháng 10 - 1945 công nhân Bombay bãi công phản đối Chính phủ Anh dùng quân đội Anh - ấn  đàn áp phong trào  cách mạng ở Inđônêxia và Việt Nam. Ngày 25 - 10 trở thành “Ngày Inđônêxia” trên khắp Ấn Độ. Công nhân từ chối chuyển hàng quân sự cho Pháp và Hà Lan. Tháng 11 - 1945 đã diễn ra cuộc bãi công có tiếng  vang khắp cả nước của 300.000 công nhân thành phố Cancutta. Năm 1945 có 850 cuộc bãi công nổ ra với sự tham gia của 58 vạn người.

          Điển hình cho phong trào đấu tranh ở Ấn Độ thời gian này là cuộc binh biến của các thuỷ thủ hải quân Ấn Độ, nổ ra đầu tiên ở Bombay ngày 19 - 12 - 1946. Do chính sách ngược đãi và kỳ thị chủng tộc của các sỹ quan người Anh đối với thủy thủ người ấn, thể hiện trong việc đối xử bất bình đẳng về chế độ lương bổng cũng như điều kiện làm việc, các thủy thủ  người ấn  đã nhiều lần gửi kiến nghị cho những người chỉ huy đòi cải thiện điều kiện, chế độ làm việc  nhưng đều không có kết quả. Do vậy, họ đã bầu ra một uỷ ban đình công và ngày 19-2-1946 thủy thủ hải cảng Bombay đã đi đầu trong cuộc đình công này. Lập tức, thủ thủ ở các hải cảng khác của Ấn Độ cũng như đông đảo công nhân các bến tàu nhiệt liệt hưởng ứng. Trước tình hình đó, thực dân Anh quyết định đàn áp bằng vũ lực, do vậy các thuỷ thủ đã quyết định tiến hành khởi nghĩa vũ trang vào ngày 21-2-1946. Cuộc nổi dậy nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của các lực lượng dân chủ trong cả nước. ở Bombay, theo lời kêu gọi của những người cộng sản, ngày 22-2-1946 liên tiếp diễn ra các cuộc bãi công, diễu hành, mít tinh của quân chúng nhân dân, thu hút 20 vạn công nhân, viên chức, học sinh tham gia. Trên nhiều đường phố ở Bombay những người biểu tình đã đặt chướng ngại vật và dựng lên những hàng rào chiến đấu để đối phó với quân  đội và cảnh sát. Cuộc bãi công nhanh chóng lan rộng vào quân đội các ngành hàng không, hải quân ở Cancútta, Mađrát, Đê li... Hoảng sợ trước nguy cơ  của sự  sụp đổ toàn diện, thực dân Anh vội vã điều quân từ khắp các địa phương về Bombay để đàn áp phong trào, làm cho gần 300  người bị chết, 1700 người bị thương. Sự đàn áp dã man này làm cho “ngày 21 - 2” hàng năm được nhân loại tiến bộ chọn làm ngày Quốc tế đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Cuộc nổi dậy của các thuỷ thủ Bombay đã báo hiệu một tình thế cách mạng  chín muồi ở Ấn Độ. Tuy nhiên, các lãnh tụ Đảng Quốc Đại và Liên đoàn Hồi giáo, một mặt bày tỏ sự thông cảm, ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của các thuỷ thủ, mặt khác, kêu gọi các thuỷ thủ chấm dứt bãi công chống chính quyền. Đảng Quốc Đại đã cử V.Paten  đến điều đình với Ban lãnh đạo bãi công Bombay. Dưới  áp lực từ nhiều phía, Uỷ ban bãi công Bombay đã phải nhượng bộ (23 -2-1946).

          Cuộc đấu tranh Bombay kéo theo các cuộc nổi dậy của nhân dân Cancutta, Mađrát, Karachi... Trong năm 1946 có hơn 2000 cuộc bãi công, làm tổn hại cho giới chủ hơn 2 triệu ngày công. Đặc biệt, đầu năm 1947, riêng ở Cancutta có hơn 40 vạn công nhân tham gia bãi công.

          Cùng với cuộc đấu tranh của công nhân, binh lính, năm 1946 còn diễn ra nhiều cuộc nổi dậy tự phát trên khắp các tỉnh của nông dân. ở nhiều nơi nông dân đã xung đột vũ trang với địa chủ, cảnh sát.Tại các vùng Batsti, Ballia,... nông dân đã nổi dậy đòi cải cách ruộng đất. ở Bengan, phong trào Tebhaga (“một phần ba”) của nông dân đòi chủ đất hạ mức thuế xuống 1/3 thu hoạch, đã lôi cuốn gần 5 triệu người tham gia. Đỉnh cao của phong trào nông dân là ở Telingan (vùng người Teluga ở Haiđerabát). Tại đây nông dân đã nổi dậy đòi thủ tiêu chính quyền của lãnh vương Nidam, thành lập chính quyền nhân dân (Panchaiat). Phong trào chống phong kiến cũng phát triển ở Casơmia, ở các công quốc Trung ấn.

          Những cuộc đấu tranh liên tiếp của nhân dân Ấn Độ trong suốt những năm 1945, 1946 đã chỉ cho  Chính phủ Anh biết rằng họ không thể nào kìm hãm mãi Ấn Độ trong địa vị một nước thuộc địa nữa, rằng muốn cứu vãn tình thế, bảo vệ những quyền lợi kinh tế của họ ở Ấn Độ, nhất định họ phải đi đến chỗ nhượng bộ thực sự. Do đó, tháng 2 - 1946,  átli, Thủ tướng Anh, cử một phái đoàn gồm ba Bộ trưởng (Bộ trưởng các vấn đề Ấn Độ - P.Lawrence, Bộ trưởng Hải quân - Alexandre, Bộ trưởng Thương mại - Cripps) đến Ấn Độ. Đồng thời, ngày 15 - 3 - 1946, trong một tuyên bố ở Hạ Viện, átli nói sẽ trao quyền tự trị cho Ấn Độ, công nhận phong trào đòi độc lập ở Ấn Độ là một phong trào của toàn dân tộc.

          Từ cuối tháng 3 - 1946, phái bộ Anh bắt đầu những cuộc thương lượng kéo dài cho đến hết tháng 4 với các thủ lĩnh của Đảng Quốc Đại và Liên đoàn Hồi giáo, là các chính đảng vừa chiếm được  nhiều ghế trong cuộc bầu cử Hội đồng lập pháp hàng tỉnh (Đảng Quốc Đại có 930 ghế, Liên đoàn Hồi giáo có 497 ghế). Cuộc thương lượng kết thúc mà không đưa lại kết quả, do Liên đoàn Hồi giáo quyết tâm đi đến thành lập một quốc gia Hồi giáo riêng rẽ. Ngày 16 - 5 - 1946, Chính phủ Anh ra tuyên bố có tính chất thoả hiệp là bác bỏ (về hình thức)  việc phân chia Ấn Độ nhưng lại nhấn mạnh những nguy cơ với thiểu số Hồi giáo trong một nước tự trị thống nhất có đa  số cư dân theo Ấn Độ giáo.

          Tháng 6 - 1946, G.Nêru thay Adát  làm Chủ tịch Đảng Quốc Đại. Phó vương Varen đề nghị G.Nêru giữ chức Phó thủ tướng và thành lập Chính phủ lâm thời như một  Hội đồng hành pháp trực thuộc Phó vương.  Đề nghị này được chấp thuận và ngày 24 - 8- 1946, thành phần của Hội đồng hành pháp được công bố. Hội đồng gồm Phó thủ tướng là G.Nêru và các thành viên bao gồm các thủ lĩnh Đảng Quốc Đại như V.Paten, R.Prasát v.v. cùng đại diện của Cộng đồng Thiên chúa giáo (G.Mathai), người Xích (S.Sniph),người Pasi (Brabba)... Mặc dù còn có những hạn chế nhất định  nhưng Chính phủ lâm thời đã chứng tỏ được sự khác biệt so với chính quyền thực dân trước kia.

          Liên đoàn Hồi giáo phản đối sự kiện trên, lên án người Anh phản bội và tuyên bố phát động chiến tranh để thành lập một Nhà nước Hồi giáo riêng. Nhiều  cuộc xung đột gay gắt nổ ra giữa cộng đồng người ấn  và người Hồi giáo. Đến đầu tháng 9- 1946, Liên đoàn tham gia Chính phủ lâm thời nhưng tiếp tục tẩy chay Quốc hội lập hiến.

          Chính phủ Anh thấy rằng ở Ấn Độ đang hình thành tình thế cách mạng mà nếu chậm trễ việc chuyển giao quyền quản lý đất nước cho đại diện lớp trên thì hệ thống chính quyền do họ dựng lên sẽ bị  cuộc khởi nghĩa vũ trang lật đổ. Ngày 20 -2 - 1947, Atli tuyên bố  người Anh sẽ rời khỏi Ấn Độ trước tháng 7 - 1948 và nếu lúc đó chưa thành lập xong Chính phủ trung ương thì chính quyền sẽ chuyển giao cho các tỉnh. Đảng Quốc Đại  lẫn Liên đoàn Hồi giáo đều ủng hộ tuyên bố này. Maobattơn - nguyên tư lệnh tối cao quân đội Đồng minh ở Đông Nam á - được cử sang Ấn Độ làm Phó vương cuối cùng, thaycho Varen vào tháng 4-1947. Ngày 3-7-1947, Maobattơn đã đưa ra một kế hoạch phân chia Ấn Độ thành hai xứ tự trị, gọi là “Kế hoạch Maobattơn” hay “Đạo luật về nền độc lập Ấn Độ”, với các nội dung sau:

          - Trên lãnh thổ Ấn Độ thành lập hai xứ tự trị  là Liên bang Ấn Độ và Pakixtan.

          - Vấn đề phân chia Bengan và Pengiáp theo đặc trưng tôn giáo sẽ được quyết định thông qua biểu quyết của đại biểu các khu vực có cư dân ấn giáo và Hồi giáo cư trú.

          - Tại tỉnh biên giới Tây Bắc và huyện Silhet (Atsam) chủ yếu có người Hồi giáo sinh sống thì tiến hành trưng cầu dân ý.

          - Số phận của Xinh sẽ được biểu quyết ở Hội đồng lập pháp hàng tỉnh.

          - Việc các công quốc gia nhập vào xứ tự trị nào là thẩm quyển của lãnh vương công quốc đó.

          - Quốc hội lập hiến chung sẽ chia thành Quốc hội lập hiến của hai xứ tự trị, cơ quan này sẽ quyết định thể chế của hai quốc gia.

          Tháng 6- 1947, Uỷ ban toàn Ấn Độ của Đảng Quốc Đại đã họp chấp thuận “Kế hoạch Maobattơn” với 157 phiếu thuận, 61 phiếu chống. Còn Liên đoàn Hồi giáo  đòi bổ sung thêm điều khoản “nhập vào Pakixtan toàn bộ xứ Bengan và Pengiáp”.

          Kết quả bỏ phiếu ở Xinh và trưng cầu dân ý ở Silhet cùng những vùng biên giới Tây Bắc đã xác định các vùng đó thuộc về Pakixtan.

          Tháng 8 - 1947, “Kế hoạch Maobattơn” được Nghị viện Anh thông qua và trở thành “Đạo luật về nền độc lập Ấn Độ”, có hiệu lực từ ngày 15 - 8 - 1947. Từ 15 - 8 - 1947, chính quyền Anh lần lượt chuyển giao chính quyền cho Đảng Quốc Đại và Liên đoàn Hồi giáo. Sau đó hai nước đều thành lập Chính phủ riêng của mình, Chính phủ Ấn Độ do G.Nêru, chủ tịch Đảng Quốc Đại và Chính phủ Pakixtan do Lixcát Ali Han, Bí thư Liên đoàn Hồi giáo, đứng đầu.

          Việc chia cắt Ấn Độ thành hai quốc gia tự trị đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như phong trào cách mạng Ấn Độ. Về kinh tế, nhiều vùng công nghiệp, nông nghiệp tuỳ thuộc lẫn nhau đã bị chia cắt, những hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi... cũng bị phân chia, mối quan hệ kinh tế vốn  có lâu đời giữa Ấn Độ và Pakixtan bị  đình chỉ, việc buôn bán xuất nhập khẩu giữa hai nước đều  phải thông qua Anh. Ấn Độ mất đi 40% diện tích  trồng bông, 85% diện tích trồng đay... Về chính trị, văn hoá, việc chia cắt Ấn Độ chỉ dựa trên cơ sở tôn giáo mà không đếm xỉa gì đến các yếu tố ngôn ngữ, dân tộc, kinh tế... đã gây nên sự chia rẽ, hiềm khích sâu sắc  về tôn giáo trong nhân dân Ấn Độ. Các cuộc tranh chấp, xung đột đẫm máu đã xẩy ra ở các vùng Pengiáp và Bengan, các cuộc thảm sát tôn giáo đã cướp đi sinh mạng của 20 vạn người và cuộc di cư hỗn loạn nhất của khoảng 15 triệu người đã diễn ra. Trong những sự kiện bi thảm nàycó cái chết của M.Ganđi, do một đảng viên cuồng tín của Đảng Hindu Mahasabha ám sát ngày 30 - 1 -1948. Đồng  thời, sự chia cắt Ấn Độ còn tạo ra những vùng tranh chấp giữa hai nước Ấn Độ và Pakixtan, nhất là ở Giammu và Casơmia. Đến nay “vấn đề Casơmia” vẫn còn tồn tại và trở thành nguyên nhân của sự tranh chấp xung đột chưa bao giờ chấm dứt  giữa hai nước Ấn Độ -Pakixtan. Như vậy, bằng sự  chia cắt Ấn Độ, thực dân Anh đã tìm cách chuyển hoá mâu thuẫn giữa dân tộc Ấn Độ với thực dân Anh ngày càng gay gắt trở thành mâu thuẫn  trong nội bộ dân tộc Ấn Độ, giữa Ấn Độ giáo và Hồi giáo, và mâu thuẫn giữa hai xứ tự trị Ấn Độ và Pakixtan. Âm mưu của kế hoạch này là đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc của nhân dân Ấn Độ, thực hiện ý đồ “đi mà ở” của thực dân Anh.

          Quyền tự trị là mục tiêu đấu tranh của nhân dân  dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc Đại trong hàng chục năm nhưng giờ đây nó không làm thoả mãn nguyện vọng của nhân dân Ấn Độ nữa. Thực tế, ngay từ những năm 30, phong trào  đấu tranh  đã đặt ra mục tiêu của mình là Độc lập. G.Nêru đã chỉ rõ rằng: “Vấn đề là phải thừa nhận độc lập của Ấn Độ... Đó là một đề nghị hết sức thực tế và nhũn nhặn để có thể thực hiện được ngay không ngại xảy ra một sự đảo lộn gì lớn. Nhưng khốn nạn thay, người Anh vẫn cố bám lấy luận điệu cũ rích của chủ nghĩa đế quốc thực dân ! Và kìa họ sẽ mở mắt ra mà xem!”(1).

          Sau khi để cho Ấn Độ quyền tự trị năm 1947, bên cạnh Chính phủ Ấn Độ vẫn còn có viên toàn quyền Anh, do vậy phong trào đấu tranh đòi thành lập nước Cộng hoà và đòi độc lập thực sự ngày càng lên cao trong cả nước. Đồng thời, giai cấp tư sản Ấn Độ cũng trở nên giàu có hơn, nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong chính quyền và muốn được độc lập thực sự về kinh tế và chính trị. Tại kỳ họp thường niên của Đảng Quốc Đại ở Giaipua, tháng 12 - 1948, và của Uỷ ban hành động của Đảng này, họp ngày 10 - 4  - 1949, Đảng Quốc Đại đã quyết định tiến tới xây dựng một nước Cộng hoà Ấn Độ, độc lập về chính trị với Vương quốc Anh và vẫn ở trong khối Liên hiệp Anh. Đầu năm 1949, Đại hội đồng khối Liên hiệp Anh họp ở Luân đôn. Tại đây Thủ tướng G. Nêru đã ký với Chính phủ Atli một hiệp ước, theo đó nước Anh thừa nhận Ấn Độ là một nước Cộng hoà độc lập nằm trong khối Liên hiệp Anh.

          Ngày 26 - 11 -1949, Hội nghị lập hiến đã thông qua Hiến pháp mới. Hiến pháp quy định Ấn Độ là nước Cộng hoà có chủ quyền: trên đất Ấn Độ, các quyền dân chủ và công lý thuộc mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội, tư do tư tưởng, tín ngưỡng được đảm bảo. Chế độ đẳng cấp và các đặc quyền bị bãi bỏ, nhân phẩm và sự đoàn kết dân tộc được pháp luật bảo vệ. Hiến pháp mới đã tạo ra một sự chuyển biến lớn về mặt pháp lý đối với số phận lịch sử của Ấn Độ. Tổng thống đầu tiên được bầu ra là một trong những nhà lãnh đạo lão thành  của Đảng Quốc Đại, ông R.Prasát, còn Thủ tướng là G.Nêru.

          Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 26 -1 - 1950. Từ đây Ấn Độ chính thức tuyên bố về nền độc lập của mình. Ngày 26 - 1 hàng năm được cả dân tộc Ấn Độ lấy làm ngày Độc lập(1) và cũng là ngày Cộng hoà - ngày hội lớn của dân tộc Ấn Độ, nó kết thúc cuộc đấu tranh kiên trì, đầy hi sinh gian khổ trong suốt 200 năm, mở đầu một giai đoạn mới của lịch sử Ấn Độ.

 

(1) G.Nêru, Tự truyện.

(`1)Ngày 26-1-1930 phong trào đấu tranh đòi độc lập ở ấn Độ diễn ra mạnh mẽ. Trong các cuộc biểu tình, người ấn Độ đã đọc lời thề đấu tranh cho nền độc lập dân tộc. Ngày 26-1 được coi là Ngày độc lập của ấn Độ.

Views: 25155 - Like: 0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Top